-->

2011-08-19

Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Chương 5-6-7




CHƯƠNG THỨ NĂM
HIỂU BIẾT CHỒNG THÊM HIỂU BIẾT LÀ GỐC RỄ CỦA VÔ MINH. HIỂU BIẾT VẠN PHÁP ĐÚNG NHƯ THẬT
LÀ NHÂN TỐ CỦA NIẾT BÀN HIỆN TẠI
ÔNG A NAN LẠI HỎI VẤN ĐỀ MỞ GÚT
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Dù Phật đã dạy nghĩa quyết định thứ hai về công việc tháo mở gút. Song tôi nghĩ rằng những người mở gút nếu không biết đầu mối của gút ở đâu thì ắt hẳn không thể nào mở được.
Bạch Thế Tôn ! Tôi và hàng Thanh Văn hữu học trong hội này cũng vậy. Từ vô thỉ đến nay, chúng tôi cùng sanh cùng diệt với các thứ vô minh, tuy được nghe nhiều Phật, Pháp, mang tiếng xuất gia mà như người sốt rét cách nhật (ý nói chợt giác chợt mê). Xin đức
đại từ thương xót kẻ đắm chìm, chỉ cho tôi ở nơi thân tâm này cái gì là gút ? Và muốn mở
phải khởi sự như thế nào ?
KHAI THỊ CHƠN LÝ VỐN KHÔNG HAI.
PHẬT PHẬT ĐẠO ĐỒNG
Đức Thế Tôn rũ lòng thương xót lấy tay xoa đảnh ông A Nan. Đồng thời tất cả thế giới chư Phật trong mười phương cùng phóng ánh sáng báu đến rừng Kỳ Đà soi lên đảnh đầu của Đức Phật. Tất cả đại chúng ở đây đều được sự khinh an chưa từng có.
Bấy giờ đại chúng đều nghe chư Phật trong mười phương khác miệng đồng lời bảo ông A Nan rằng:
Hay thay A Nan ! Ông muốn biết cái gì là gút thắt khiến cho ông luân hồi sanh tử khổ đau !
A Nan ! Cái gút thắt khiến cho ông luân hồi sanh tử, chính là sáu căn của ông, chớ chẳng phải cái gì khác !
Ông lại cũng muốn biết, phải làm sao mau đến chỗ an lạc, giải thoát, tịch tĩnh vô thượng
Bồ đề !
Này ! A Nan ! Thì cũng chính là sáu căn của ông đó, chớ chẳng phải cái gì khác.
CĂN TRẦN CÙNG MỘT GỐC CỘT MỞ
KHÔNG HAI NGUỒN
Ông A Nan tâm còn lưỡng lự ôm mối hoài nghi, cúi đầu thưa Phật: Bạch Thế Tôn ! Vì sao cái nguyên nhân khiến cho tôi luân hồi sanh tử và khiến cho tôi được Bồ đề, Niết bàn lại cũng là do sáu căn chớ không phải cái gì khác ?
Phật dạy: A Nan ! Căn và trần đồng một bản thể; cột hay mở chẳng phải đợi hai. Cái thức phân biệt của ông chỉ là hư vọng như hoa đốm trong hư không. Nhân nơi trần mà phát ra cái nhận biết của căn. Nhân nơi căn mà có cái sắc tướng của trần. Chủ thể năng kiến và đối tượng sở kiến chỉ là sự phản ánh tác dụng qua lại mà có ra. Tự tánh của chúng thật sự là không có tự tánh gì. Sự hiện khởi duyên sanh của chúng như những cái hình của những đám lau sậy gác chéo vào nhau…
Vậy nên: Hiểu biết mà chồng lên hiểu biết là gốc rễ của vô minh. Hiểu biết rồi xóa đi hiểu biết mới tìm thất Niết bàn ! Cần chi trong đó phải có cái gì khác, A Nan nhỉ !
TRỰC CHỈ
Tâm lý của ông A Nan cũng chính là tâm lý chung của những người đệ tử Phật. Có ai
biết trong ta cái gì là gút, để phải vướng mắc mãi trong sanh tử luân hồi ? Có mấy ai biết phải làm sao mở gút để khỏi ràng buộc trói trăn ? Người ta thường có quan niệm: Thành Phật phải là cái gì vĩ đại, xa xăm và ghê gớm lắm. Chính ông A Nan học Pháp đến đây
mà vẫn còn tư tưởng tịt mù xa xăm đó, thì trách chi những hàng bạc địa phàm phu !
Thì ra sự thật lại quá giản đơn. Chẳng những riêng Phật Thích Ca cho sự mở gút là giản đơn mà mười phương chư Phật đông như số vi trần cũng đồng tình rằng: Vấn đề tìm gút và mở gút là vấn đề trước mắt. Nó chẳng ở đâu xa, cũng chẳng phải do ai đem đến. Gút hay mở chính là sáu căn của ông A Nan đó. Sáu căn của ông A Nan cũng chính là sáu căn của tất cả mọi người đệ tử Phật chúng ta ai ai cũng có. Thương, ghét, thân, sơ, hỉ, nộ… là gút là thắt đó. Từ bi, hỉ xả, thiền định, trí tuệ… là mở, gút sẽ được tháo tung.
Yếu lý ở đoạn kinh này, đức Phật đúc kết trong triết lý: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn”.
Chảo lảy điêu ngoa đồng nghĩa với cột gút, thắt thêm nhiều lớp. Thực thà, chất phác là công dụng của sự tháo gút mở dây.
TÓM LƯỢC Ý THÚ CỦA NHỮNG ĐOẠN KINH TRÊN QUA BÀI TRÙNG TỤNG
Chơn tánh của pháp hữu vi là không Vì duyên sanh, sanh như huyễn hóa Vô vi thì không có khởi diệt
Vì chẳng thật, như hoa đốm trong hư không Phủ định vọng, nhằm khẳng định có chơn Nếu chấp chơn, thì vọng chơn đều vọng Chơn và phi chơn còn không có
Thì năng kiến sở kiến có thực gì ! Thức ở trung gian, không thực tánh Như lau sậy gác chéo lên nhau
Cột hay mở đồng một bản nhân Thánh và phàm không hai ngả tẻ Hãy trông hình những cây lau gác Pháp không, pháp có, cả hai không Mê mờ chơn lý đó là vô minh
Phát minh được chơn lý tức là giải thoát
Mở gút phải theo thứ lớp
Sáu gút mở hết, cái một không còn Dựa nơi căn mà chọn tánh viên thông Quả nhập lưu được xem là thành Phật Thức A Đà Na vi tế quá
Tập khí như nước thác tuôn theo
Vì sợ chấp chơn, phi chơn Như Lai không thường nói đến Tự tâm chấp tự tâm
Pháp phi huyễn trở thành pháp huyễn Không chấp, pháp chơn còn không có Pháp chơn vốn đã chẳng có sanh
Thì pháp huyễn do đâu thành lập ?
Như huyễn tam ma đề là vậy
Đó là bảo giác, chắc như kim cương vương Không nhiễm như Diệu Liên Hoa Khảy móng tay vượt hàng vô học
Đây là pháp của Phật mười phương
Là đại lộ vào thành đô Niết bàn Phật.
TRỰC CHỈ
Pháp hữu vi không có tự thể, thực chất của nó là không. Vì nhân duyên sanh cho nên có. Có mà không thật có nên gọi là như huyễn.
Nhằm phủ định huyễn hữu mà phải đề cập cái vô. Kỳ thực, chẳng có cái gọi là “Vô vi” nào cả. Cái không có sanh khởi, không có diệt tận gọi đó là “Vô vi”. Vậy thì “Vô vi” đồng nghĩa với “Không có gì”. Người đệ tử Phật không bao giờ hy vọng ở cái gọi là “Vô vi”, dù được người ta quảng cáo “Vô vi” là cảnh giới an vui hạnh phúc ! Giả vọng biểu chơn là một thuật ngữ thường dùng trong Phật học. Phủ định vọng nhằm để khẳng định cái chơn. Nhưng phải hiểu: Hết vọng là chơn mà không cầu chơn trong khi hết vọng. Hết vọng cầu chơn là tìm thêm một cái đầu để chồng lên cái đầu mình đã có. Đó chẳng phải là tâm trạng của kẻ điên loạn là gì ?
Phân biệt, đánh giá sự vật qua: mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét… là do thức trung gian đó. Mà thức thì đã phải chủ đâu ! Duyên sanh, duyên diệt, thức thay đổi luôn luôn, như những hình thoi, hình thang, hình tam giác, hình vuông… trong những đám lau sậy gác lên nhau trong những cơn gió giật !
Căn trần đồng là vật biểu hiện từ Như Lai tàng, phát xuất từ Như Lai tàng không tội lỗi. Buộc hay mở do căn; thánh phàm do tự chủ hay không tự chủ đối với sáu căn của mình.
Pháp không, không đã đành; pháp có, cũng là không ! “Chúng nhơn duyên sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không”…
Mê mờ chơn lý không, có là vô minh. Tỏ ngộ chơn lý có và không thì giải thoát. Mở gút nên theo thứ lớp; một được mở, sáu gút sẽ giải tỏa theo. Sáu gút mở thì cái một không còn. Hãy lựa căn có ưu thế để phát huy công dụng; lựa một căn mà chọn tánh viên thông. Được quả nhập lưu, xem như đã thành Phật. Bởi vì Như Lai há chẳng nói: “Tất cả chúng sanh đã thành Phật” đó sao ?
Thức A Đà Na sâu sắc lắm, tập khí chúng sanh lại quá sâu dày. Như Lai thường không
đề cập đến, ngại chúng sanh mê chấp: Này chơn nọ chẳng phải chơn. Ở Kinh Thủ Lăng Nghiêm này, Như lai chỉ dạy trong phạm vi: sáu căn, sáu trần và sáu thức. Sáu thức vọng chấp là vọng đã đành, móng ý chấp chơn, làm cho chơn hóa ra vọng. Tự tâm chấp tự tâm: Tâm mình Phật, lại van xin mong cầu Phật, há không phải pháp “phi huyễn” trở thành “huyễn pháp” đó sao ?
Không chấp thì vọng chơn đều vắng lặng trạm nhiên: chơn còn không có, vọng vin vào
đâu sanh được ?
Nhận thức như vậy thường xuyên. Đó là cách tu thiền, là tư duy tu đó. Tu như vậy Phật gọi: Như huyễn tam ma đề. Đó là phương pháp thiền nhìn vạn pháp như huyễn. Có như huyễn tam ma đề là có bảo giác chắc như kim cương vương. Thanh tịnh như Diệu Liên Hoa, khảy móng tay vượt hàng vô học (Thanh Văn Duyên Giác nhị thừa). Mười phương chư Phật đồng như số vi trần, đồng đi con đường đó mà vào thành đô Niết bàn Phật !
CHỈ MỘT CÁI KHĂN MÀ SÁU LẦN CỘT THÌ THÀNH SÁU GÚT MỞ HẾT SÁU GÚT MỘT CŨNG KHÔNG CÒN
NGUYÊN DO CỦA MỘT SÁU DỊ ĐỒNG
Ông A Nan chấp tay đảnh lễ thưa: Bạch Thế Tôn ! Nay tôi nghe Phật dạy ý thú thẩm sâu mầu nhiệm, nhưng tôi còn chưa rõ cách thức mở gút thế nào và vì sao mở hết gút thì một cũng không còn ? Xin Phật rũ lòng thương đại chúng trong hội này và chúng sanh tương lai bố thí pháp âm để chúng tôi có thể trừ sạch cấu nhiễm sâu dày trầm trọng !
Bấy giờ đức Thế Tôn trên tòa sư tử sửa nội y vén áo tăng già lê (đại y) đưa nhẹ tay lấy cái khăn hoa trên ghế thất bảo. Trước đại chúng Đức Phật cột thành một gút, đưa cho ông A Nan xem và hỏi:
Cái này gọi là cái gì ?
- Đấy là cái gút, bạch Thế Tôn. Ôn A Nan và đại chúng thưa.
Đức Phật lại cột khăn hoa thêm một gút nữa rồi cũng hỏi ông A Nan: Cái này gọi là cái gì ?
- Cũng gọi là cái gút. Bạch Thế Tôn !
Rồi cũng cái khăn lụa hoa ấy tuần tự đức Phật cột thành sáu gút và mỗi khi cột xong một gút Phật đều đưa khăn lên và hỏi như vậy.
Ông A Nan và đại chúng cũng tuần tự đáp như vậy sáu lần.
Phật bảo ông A Nan: Khi tôi mới cột khăn thì ông nói là một gút. Thật sự chiếc khăn lụa hoa này trước sau chỉ là một cái. Cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba… các ông cũng gọi là gút
?
Bạch Thế Tôn ! A Nan thưa. Cái khăn lụa hoa quý báu này, vốn là một thể, song Như Lai cột một lần thì gọi là một gút, nếu cột trăm lần thì cũng phải gọi là một trăm gút, huống chi ở đây có sáu gút, không đến bảy, cũng chẳng dừng ở năm. Cớ chi Như Lai quở trách chỉ cho gút thứ nhất là gút, còn cái thứ hai, thứ ba… không cho gọi là gút ?
Phật bảo: Như ông biết cái khăn hoa này nó vốn là một, vậy mà tôi cột sáu lần thì ông gọi là sáu gút. Này A Nan ! Ông chín chắn xem xét nghĩ suy: Tự thể của cái khăn vốn là
đồng chỉ vì gút mà hóa ra thành dị, ông nghĩ thế nào ? Khi mới cột gút ban đầu thì gọi là gút thứ nhất. Như vậy cho đến cột lần thứ sáu thì gọi là gút thứ sáu. Nay tôi muốn gọi gút thứ sáu là gút thứ nhất có được không ?
- Bạch Thế Tôn ! Không. Nếu còn sáu gút thì cái gọi là thứ sáu, không sao gọi là cái thứ
nhất được. Dù tôi có biện bạch suốt đời cũng không thể làm cho sáu gút đổi tên !
Phật dạy: Đúng vậy ! Đúng vậy ! Sáu gút không đồng nhưng xét tìm bản nhân lại vẫn là do một cái khăn mà có. Thế mà không ai có thể làm cho nó lộn xộn được với nhau.
A Nan ! Sáu căn của ông cũng như vậy. Từ cái thể hoàn toàn đồng mà sanh cái dụng
hoàn toàn dị. Chẳng khác chút nào cái khăn lụa hoa kiếp ba la của Như Lai !
A Nan ! Giả sử ông không muốn thành sáu gút trong một cái khăn. Giả sử ông muốn cái khăn chỉ còn thể duy nhất, thì ông phải làm thế nào ?
- Bạch Thế Tôn ! Nếu các gút mà còn thì thị phi tranh cãi khó mà ngăn. Vì gút này không phải gút kia và gút kia không phải là gút nọ được ! Nếu Như Lai mở tháo tung cả, không còn gút thì không còn có này, có nọ, có kia, thế là một còn không có, làm chi có sáu !
Phật dạy: Cái ý nghĩa mở sáu, một không còn cũng như vậy đó. Các ông chỉ vì vọng tâm vô thỉ, khiến cho tri kiến sanh bệnh làm lòa cái tánh tịnh minh trạm tịch của các ông, cho nên sơn hà đại địa, sanh tử, niết bàn trở thành cái tướng hoa đốm của đôi mắt mệt hóa lòa của các ông đó !
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Cái bệnh mê lầm giống như gút kia làm sao mà cởi mở được !
Bấy giờ đức Phật lấy cái khăn đã cột gút, kéo một mối lệch qua trái rồi hỏi ông A Nan: Tôi làm thế này có mở gút được chăng ?
- Không được, bạch Thế Tôn !
Rồi đức Phật nắm kéo mối khăn lệch qua bên phải, cũng hỏi ông A Nan như vậy. Ông A Nan cũng đáp là không thể mở được.
Phật hỏi: Tôi kéo mối khăn qua phải qua trái đều không mở gút được. Vậy theo ông nghĩ, phải làm thế nào mới mở được gút ?
- Bạch Thế Tôn ! Phải mở trung tâm cái gút thì tháo ra ngay.
Phật bảo: Đúng vậy. Muốn mở gút thì phải mở ngay trung tâm của gút.
A Nan ! Như tôi đã nói: Phật pháp từ nhân duyên sanh. Nhưng các ông không được chấp ở tướng hòa hợp thô sơ trên hiện tượng của thế gian mà thỏa mãn tri kiến của mình. Như Lai phát minh tuệ giác vô thượng cho nên biết tất cả bản nhân của pháp thế và xuất thế gian; đến như một hạt mưa ngoài hằng sa thế giới cũng biết số mục; cây tùng thẳng, cây gai cong, chim câu trắng, chim quạ đen Như Lai đều biết nguyên do tất cả.
A Nan ! Tùy tâm ông lựa chọn nơi 6 căn, nếu tháo mở được cái gút căn ấy thì các trần tương tự tiêu vong, đối với ông, vọng cảnh không còn, bấy giờ ông chẳng phải sống trong chơn tâm thì còn gọi là gì nữa !
CỘT GÚT ĐÃ CÓ THỨ LỚP THÌ MỞ
PHẢI CÓ TRƯỚC CÓ SAU
Phật bảo A Nan ! Cái khăn hoa này có sáu gút, ông có thể mở bung cùng một lúc được không ?
- Bạch Thế Tôn ! Không. Những cái gút khi cột đã có thứ lớp, nay mở cũng phải theo trước sau. Sáu gút tuy đồng thể, nhưng lúc cột lại chẳng đồng thời. Thế nên, nếu mở gút phải bắt đầu từng cái một.
Phật dạy: Trừ khử những gút sáu căn cũng giống như vậy. Bắt đầu mở, trước hết tháo mở nhân không. Nhân không hóa giải hoàn toàn sáng suốt thì bước thêm mở lần pháp chấp. Pháp chấp xả hết bấy giờ gọi là hạng người ngã pháp câu không. Đấy gọi là Bồ tát từ tam ma địa mà được vô sanh pháp nhẫn.
TRỰC CHỈ
Đọc đoạn kinh này, người đệ tử Phật phải chín chắn soát lại vấn đề tri kiến của mình. Cái trí thể là một, tự nó chẳng có hỉ, nộ, ai, cụ… chẳng có tham, sân, si, mạn… Do sự tác động bất giác vô minh khiến cho cái trí dụng trở thành nhiễm ô. Những cái gút mà Đức Phật cụ thể hóa qua cái khăn kiếp ba la chính là những gút tham, sân, si, mạn… và
hỉ, nộ… ấy. Cái khăn lụa hoa của Phật tự thể nó chẳng có gút nào. Cột gút là do bàn tay Phật, nghĩa là phải do động tác của ai đó làm ra. Khi đã cột gút rồi thì gút nào tên nấy. Do vậy, làm mất đi cái tự thể láng mịn của cái khăn hoa đẹp. Cái tri kiến vô kiến hay nói cách khác là “thể tánh tịnh minh” của ta vốn thanh tịnh bản nhiên trong sáng đẹp đẽ như cái khăn hoa láng mịn ấy. Chấp mắc là do ta, khiến cho tri kiến của ta trở thành tri kiến lập tri, phân biệt ghét thương lấy bỏ thân sơ làm cho sáu căn trần vẩn đục bởi sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Muốn khăn không còn gút thì phải mở hết gút bỏ đi. Muốn căn trong sáng an lành thì phải diệt đi tính chấp: phải, quấy, ghét, thương… tham, sân, si, mạn…
Không mở đúng trung tâm gút thì không thể tháo gút ra. Không chế phục sáu căn thì đam mê lầm lạc lâu đời không xóa sạch được.
Cột đã có gút một, gút hai… thì mở cũng phải theo thứ lớp.
Tai hại của gút là làm cho cái khăn hoa mịn đẹp của Như Lai thành “một” rồi “hai”…, rồi thành sáu gút, mà tên gút không thể đổi dời.
Tai họa gây đau khổ cho con người là tri kiến vốn tịnh, vốn thanh, vốn minh, vốn diệu lại trở thành ngã chấp, pháp chấp thị phi hỉ nộ…
Mở gút, mở sáu gút hết thì cái một cũng không còn, vì sáu căn mà thanh tịnh thì sáu không còn sáu mà chỉ còn: Tri kiến vô kiến, thể tánh tịnh minh. Bấy giờ sáu căn dùng thay lẫn nhau không có gì trở ngại (lục căn hỗ dụng).
Mở gút phải bắt đầu từ cái gút khởi đầu. Chế phục vô minh phải triệt tiêu ngã chấp trước. Tiến thêm một bước, diệt trừ ý thức pháp chấp tiếp theo.
Ngày nào ngã pháp đều không, hỏi ai là người sẽ thành Phật ? Nên chỉ những con người ngã pháp câu không ấy !
QUẢ VỊ CÓ THẤP CAO GIẢI THOÁT GIỐNG NHAU KHÔNG KHÁC MẤY. CĂN TRẦN THỨC GIỚI THẤT ĐẠI ĐỀU LÀ DỮ KIỆN CHỨNG VIÊN THÔNG
Ông A Nan và đại chúng nhờ Phật khai thị tuệ nhãn được Viên dung Thông đạt; đối với chân lý xẻ bỏ được màn lưới nghi ngờ đen tối. Tất cả đồng chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Ngày nay chúng tôi thâm tâm sáng suốt vén bức rèm vô minh, tuệ giác được phần vô ngại. Đối với diệu nghĩa “sáu mở một không còn”, Như Lai dạy chúng tôi đã lãnh hội. Nhưng nay còn chưa rõ chúng tôi cần phải làm gì để tâm tánh được viên thông, khi rời pháp âm hướng dẫn của Phật ? Xin Phật rũ lòng thương ban cho chúng tôi những bí pháp thậm thâm được xem như lời dạy cuối cùng của Phật ?
PHẬT HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ NHÂN DUYÊN NGỘ ĐẠO VÀ DỮ KIỆN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo khắp các đại Bồ Tát và hàng lậu tận A La Hớn rằng: Các ông là Bồ Tát và A La Hớn sanh trong Phật Pháp đã chứng quả vô học. Nay tôi hỏi các ông: Lúc mới phát tâm, trong thập bát giới, các ông tâm đắc ở giới nào ? Do nhân duyên gì ? Từ phương tiện nào mà các ông được tam ma đề viên thông tâm tánh ?
1. DO THANH TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Nhóm ông Kiều Trần Như năm vị tỳ kheo từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Sau khi Như Lai thành đạo ở Lộc Uyển, chúng tôi gặp Phật trước tiên. Chúng tôi được Phật khai thị cho về pháp tứ diệu đế. Do nghe tiếng Pháp của Phật mà tôi tỏ ngộ. Lúc đó Phật hỏi các Tỳ kheo: Có hiểu không, tôi thưa là đã hiểu. Nhơn đó Như Lai đặt cho tôi cái tên là A Nhã Đa, ấn chứng chúng tôi là những người A La Hớn. Nay Phật hỏi viên thông, đối với tôi thanh trần là mầu nhiệm nhất.
2. DO SẮC TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Ưu Ba Ni Sa Đà đứng dậy chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Tôi cũng được gặp Phật sau những ngày Như Lai thành đạo không lâu. Trông vào tướng hảo quang minh của Phật tôi quán sâu vào tướng bất tịnh của sắc thân ô trược. Từ cái tử thi bắt đầu bành trướng… đến tướng bạch cốt… vi trần… tôi sanh lòng nhàm chán tột bậc, chợt tỏ ngộ tánh: Sắc, không, không sắc đều chẳng ra gì. Như Lai ấn chứng cho tôi cái tên là Ni Sa Đà, tôi được A La Hớn quả. Nay Phật hỏi duyên cớ được viên thông, xin thưa: Đối với tôi sắc trần là ưu việt nhất.
3. DO HƯƠNG TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Hương Nghiêm đồng tử đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Trước đây Như Lai dạy tôi quán sát kỹ về các pháp tướng hữu vi. Một hôm tôi tĩnh tọa trong giảng đường các tỳ kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương thoang thoảng trong tĩnh mịch u nhàn, tác dụng đến mũi tôi. Tôi tư duy quán xét: Hương này không phải do gỗ, không phải do hư không, không phải do khói, không phải do lửa. Đi ra không dính vào đâu. Đến đâu không chỗ dùng trụ. Quán chiếu như vậy, ý thức phân biệt của tôi tự khắc tiêu vong. Trí vô lậu phát sanh, Như Lai ấn chứng cho tôi danh hiệu là Hương Nghiêm. Vì do tôi thể nghiệm mùi hương mà chứng được A La Hớn quả. Nay
Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Với tôi, hương trần là tối thắng nhất.
4. DO VỊ TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Hai vị Bồ Tát Dược Vương, Dược Thượng, cùng năm trăm phạm thiên trong hội đồng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Từ vô lượng kiếp, chúng tôi là lương y cứu tế thế nhân. Miệng chúng tôi thường nếm những lá hoa cây cỏ kim thạch trong cõi Ta bà này. Tất cả những vị: Mặn, lạt, chua, cay, ngọt, đắng… vị biến đổi sanh, vị hòa hợp có; vị nào lạnh vị nào nóng thứ có độc, thứ không tôi đều biết cả. Được phục vụ chư Phật và tất cả chúng sanh, rõ biết tánh chất của vị trần: Không phải không, không phải có, không phải tức thân tâm, không phải ly thân tâm. Nhờ tôi phân biệt Vị trần mà được khai ngộ. Phật ấn chứng cho chúng tôi danh hiệu là Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát. Nay Phật hỏi nhân duyên và phương tiện được viên thông, xin thưa: Đối với chúng tôi vị trần là ưu việt nhất.
5. DO XÚC TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Bạt Đà Bà La cùng với mười sáu vị tăng sĩ đồng là đạo bạn cùng đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Bọn tôi trước kia ở thời Phật Oai Âm Vương, nghe pháp xuất gia. Lúc chư Tăng tắm, tôi theo thứ lớp vào nhà tắm để tắm. Bỗng nhiên tôi tư duy và nhận thức rằng: Nước vốn không rửa bụi và cũng chẳng rửa chân, trung gian an nhiên lặng lẽ. Tôi tâm đắc tột độ cái chân lý: “Chẳng có gì”. Tập quán trước không quên, đến nay tôi theo Phật xuất gia được quả vô học. Đức Phật thuở ấy gọi tôi với cái tên: Bạt Đà La (thiên
thủ). Do tôi phát hiện tánh mầu nhiệm của xúc trần mà thành Phật tử. Nay Phật hỏi duyên cớ được viên thông, xin thưa: Đối với tôi xúc trần là hơn tất cả.
6. DO PHÁP TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Ma Ha Ca Diếp và bà Tử Kim Quang tỳ khưu ni v.v… đồng đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Kiếp xa xưa trong cõi này có Phật ra đời hiệu Nhật Nguyệt Đăng. Sau khi Phật diệt độ chúng tôi thắp sáng ngọn đèn chánh pháp để cúng dường; đem tâm trong sáng vàng thắm thếp tô Phật tượng. Do đó đời đời kiếp kiếp thân thường viên mãn, rực rỡ như vàng ròng. Bọn Tử Kim Quang tỳ khưu ni đây cũng đồng phát tâm như tôi vậy. Chúng tôi quán sát sáu trần luôn luôn biến hoại. Tôi trụ tâm trong vắng lặng, nhập định diệt tận, thân tâm rỗng rang, thời gian trăm nghìn kiếp tựa hồ như trong cái khảy móng tay. Do thành tựu pháp không quán mà tôi được quả A La Hớn. Thế Tôn ấn chứng tôi là: Đầu đà đệ nhất; pháp trần thâm diệu nhờ tuệ nhãn tôi được khai minh, lậu hoặc được dứt trừ. Nay Phật hỏi duyên cớ viên thông, với sở ngộ chứng của tôi thì pháp trần là tối thượng.
TRỰC CHỈ
Khi con người diệt hết hoặc Kiến tư ra ngoài ba cõi thì gọi là người được giải thoát, giác ngộ. Giải thoát nói cách khác là người đó có Niết bàn. Vậy, chữ Niết bàn trong đạo Phật là chỉ sự giải thoát phiền não buộc ràng. Do vô minh tác động hoành hành trong cuộc sống. Bồ đề Niết bàn là hai mặt thực thể thanh tịnh của con người: Thấy chân lý trọn vẹn, vô minh phiền não hoàn toàn. Tuy nhiên, Bồ đề Niết bàn có đẳng cấp, không nhất thiết cùng lúc ai cũng được y nhau. Gọi là đẳng cấp, nhưng không phải như “ngạch”, “trật” do cấp trên nào phong tặng theo cảm tình thương ghét hay do đánh giá chủng tộc màu da, sang hèn cao thấp… Đẳng cấp ở đây dựa trên tiêu chuẩn đoạn vô minh trừ phiền não ở chính con người. Do vậy, Bồ đề Niết bàn có những đẳng cấp sau đây:
Thanh văn Bồ đề Duyên giác Bồ đề Bồ Tát Bồ đề
Phật Bồ đề
Đẳng cấp đó nói lên quả vị có thấp cao. Dù vậy đã là người có Bồ đề vượt ra ba cõi thì sự giải thoát gần giống nhau không khác mấy. Không khác mấy vì cả bốn đẳng cấp đều không còn quan niệm khổ đau vì phần đoạn sanh tử chi phối dầy vò. Không khác mấy, nhưng cũng không phải hoàn toàn đồng, vì trình độ nhận thức chân lý toàn vẹn và chưa toàn vẹn có chênh lệch khác nhau.
Viên thông có nghĩa viên mãn thông suốt. Nói viên thông là nói trình độ đạt đạo, nhận thức chân lý của những người đệ tử Phật. Người có trình độ nhận thức viên mãn thông suốt vượt qua tri kiến chấp mắc hẹp hòi u ám của phàm phu gọi đó là chứng được viên thông. Ở đây chủ ý Phật gạn hỏi những người có trình độ viên thông cỡ đó. Ở đây
không được hiểu viên thông với nghĩa hoàn toàn trọn vẹn, như cái từ viên mãn Vô thượng Bồ đề. Vì ở đây Phật hỏi duyên cớ được viên thông của Thanh Văn Duyên Giác Bồ Tát mà người đọc đã nhận thức rõ ràng.
Một sự kiện đáng vui mừng phấn khởi cho những người con Phật có ý chí ham học ham tu mong giải thoát: Đọc qua hai mươi lăm vị Thanh Văn lẫn Bồ Tát, các Ngài nói lên nhân duyên đạt đạo, chứng nhập viên thông của các Ngài mà ta thấy vô cùng sung
sướng. Thì ra cái sự kiện làm ra thành quả viên thông ấy, trong Phật tử chúng ta ai cũng có và ai cũng có thể biết được rõ ràng. Do đó trong mọi chúng ta ai cũng có khả năng hy vọng có ngày hiện thực viên thông. Thế mà còn chưa bằng lòng, không cảm thấy sung sướng thì gọi là tu hành, người ta còn muốn cái gì nữa nhỉ ?
Ta đã thấy biết rõ dữ kiện để tạo ra thành quả viên thông của sáu vị A La Hớn: Kiều Trần Như, Ưu Ba Ly Sa Đà, chẳng có xa xôi gì làm người ta khó tìm kiếm cả. Các Ngài chỉ dựa trên lục trần. Dựa trên sáu trần làm đối tượng để tu sửa thân tâm. Vậy mà mỗi Ngài trình lên với Phật một món “Đệ nhất” khác nhau. Điều đó nói với mọi người rằng:
Gọi là thuốc hay, không có thuốc nào hay với tất cả mọi con bệnh. Pháp môn có “vi diệu” cũng không phải “vi diệu” cho mọi căn cơ. Cái biết của người bệnh là khéo biết chọn thuốc hạp bệnh mà dùng. Cái trí của người con Phật, phải khéo chọn pháp môn thích
ứng căn cơ mà tu tập.
Về áu trần, trần nào cũng là dữ kiện cho các thánh chứng “viên thông”. Định nghĩa theo văn tự: “trần” có nghĩa là nhiễm ô, nhưng nó chỉ nhiễm ô khi nó tác động vào lục căn của con người chưa tự chủ. Cho nên định nghĩa “trần” qua nghĩa nhiễm ô là định nghĩa đứng bên “tục đế”, duyên sanh hiện tượng. Với nhãn quan của những bậc giác ngộ có khả năng tự chủ mà nhìn thì trần vẫn là một hiện tượng biểu hiện phát xuất từ Như Lai tàng thanh tịnh, có tội lỗi gì đâu !
Bằng nhận thức khách quan, ai cũng có thể thấy biết: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đã làm gì nên tội ? Nên tội là do con người. Con người đam mê trần với tâm động hắc ám với khát vọng điên cuồng đánh mất đi lý trí. Lý trí mà còn đánh mất thì “chân tâm thường trú” đối với hạng người này, có tìm đi nữa cũng là kẻ: đáy nước mò trăng.
Sự thành công của các A La Hớn là khéo vận dụng các tri kiến: Như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp tướng để làm cơ sở giác ngộ giải thoát cho mình.
Có câu rằng:
“Trần chẳng tương quan, biển cả nương dâu mặc thay đổi. Tâm không sở đắc, thông xanh mây trắng tự vui nhàn”.
7. DO NHÃN CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông A Nan Luật Đà đứng dậy cung kính chấp tay thưa: Bạch Thế Tôn ! Lúc tôi mới xuất gia thường ưa thích nằm và ngủ li bì. Như Lai quở tôi là loại súc sanh. Nghe lời quở của Phật, tôi thầm khóc, tủi hổ và tự trách mình. Tôi cương quyết thề không ngủ và tôi thức suốt bảy ngày đêm. Hai con mắt tôi bệnh và hư mất. Thế Tôn thương dạy cho tôi pháp: Lạc kiến chiếu minh kim cang tam muội. Sau khi được tam muội, tôi thấy suốt hiện tượng trong mười phương như trái chanh trái quít để trên bàn tay. Như Lai ấn chứng cho tôi quả A La Hớn. Nay Phật hỏi nguyên nhơn nào được viên thông, xin thưa: Theo chỗ tâm đắc của tôi là Xoay tánh thấy của nhãn căn trở về bản thể thanh tịnh bản nhiên là ưu việt nhất.
8. DO TỶ CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Châu Lợi Bàn Đặc đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: rằng tôi vì thiếu trì tụng kinh điển nên không có tuệ đa văn. Khi mới gặp Phật, tôi xin xuất gia nghe học pháp Phật tôi cố nhớ một bài kệ của Như Lai mà không sao nhớ nổi. Tôi gắng học suốt cả một trăm ngày, nhớ đoạn trước thì quên câu sau; nhớ đoạn sau lại quên câu trước. Phật thương tôi ngu muội, dạy tôi ở một nơi yên tĩnh tu tập pháp môn điều hòa hơi thở ra vào. Bấy giờ tôi vận dụng quán trí theo dõi từng hơi thở, từ thô đến vi tế, từng sát na nhiếp ý, vận dụng tư duy, chia hơi thở thành bốn thời kỳ: Hít vô gọi là sanh. Đầy hơi gọi là trụ. Thở ra gọi là dị. Mãn hơi gọi là diệt. Thực hiện một thời gian, tâm tôi bừng sáng rỗng rang được đại vô ngại, các lậu hoặc dứt hết thành A La Hớn. Trước pháp tòa, Phật ấn chứng cho tôi thành quả vô học. Nay Phật hỏi viên thông, theo chỗ sở hành của tôi: Tập trung tư tưởng xoay vào quán hơi thở ra vào minh bạch, là pháp hành hiệu quả nhất.
9. DO THIỆT CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Kiều Phạm Ba Đề đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Rằng tôi mắc khẩu nghiệp trong kiếp quá khứ, nhiều đời phải tật nhơi mãi như trâu. Như Lai thương, dạy
cho tôi pháp: Nhất vị thanh tịnh tâm địa. Nhờ đó tôi diệt phân biệt, được tam ma đề. Tôi quán chiếu rằng: Tánh biết vị không phải do thân thể, cũng không phải do ở ngoại vật.
Do đó, trong thì thân tâm giải thoát; ngoài thì như rời bỏ thế gian. Viễn ly ba cõi như chim sổ lồng; cấu nhiễm không còn, tiêu vong hóa trần tướng, pháp nhãn thanh tịnh, được quả A La Hớn. Như Lai ấn chứng cho tôi lên hàng vô học. Nay Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Theo tôi thì: trả vị về cho phân biệt của thiệt căn là ưu việt nhất.
10. DO THÂN CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Tất Lăng Già Bà Ta đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật rằng: Lúc tôi mới phát tâm xuất gia theo Phật, thường nghe Phật dạy: “Cuộc đời chẳng có gì vui”. Đang khi đi khất thực, vừa đi vừa tư duy lời Phật, bỗng dưng tôi đạp phải cái gai độc. Cả mình đều đau đớn. Trong lúc đau đớn, tôi quán chiếu tư duy: Giác tâm thanh tịnh vốn không có cái đau và cái biết đau ! Một thân thể lẽ đâu lại có hai tánh biết ! Nhiếp niệm không bao lâu
thân tâm bỗng nhiên rỗng rang thanh tịnh. Hai mươi mốt ngày sau, các lậu hoặc được tiêu trừ, Phật ấn chứng cho tôi lên hàng vô học chứng A La Hớn quả. Nay Phật hỏi duyên cớ nào được viên thông, xin thưa, đối với tôi: Nắm giữ giác tánh xem nhẹ thân căn là thành công dễ nhất.
11. DO Ý CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Tu Bồ Đề đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật rằng: Từ nhiều kiếp đến nay, tôi vẫn được tâm vô ngại thường trú nơi không tịch. Sự vật hiện tượng trong mười phương đối với tôi trở thành “chân không hóa” chẳng chút vương víu buộc ràng. Như Lai phát minh tánh giác là chân không; tôi tư duy thể nhập: Bảo minh không hải tam muội, tri kiến đồng như Phật. Tôi được Phật ấn chứng lên hàng vô học A La Hớn. Nay Phật hỏi nhơn duyên được viên thông, theo chỗ chứng ngộ của tôi: Quán các tướng đều là phi tướng. Cái phi tướng đối tượng cũng không lưu lại. Nhìn hiện tượng vạn pháp đúng như thật của nó: “Có mà thật chẳng có gì”, đối với tôi, đó là phương tiện chinh phục ý căn hữu hiệu nhất.
TRỰC CHỈ
Căn sở dĩ là căn vì sáu cơ quan này ví như gốc rễ để rồi từ đó sanh ra nhánh nhóc chồi tược vô minh lậu hoặc, gây ra khổ đau cho cuộc sống con người. Đó là cách định nghĩa trên mặt tục đế trên hiện tượng tùy duyên của vạn pháp. Nếu nhìn bên góc cạnh khác, người ta thấy căn chỉ là một dạng vật chất, phát xuất từ tứ đại duyên sanh như vô vàn hiện tượng duyên sanh khác. Điều mà ai cũng biết: Vật chất biểu hiện vô vàn hình thái hiện tượng khác nhau, nhưng không có cái thứ vật chất nào làm cho con người nên tội. Cũng như thế, trần là hiện tượng thu gọn, tổng kết vật chất qua sáu dạng: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp trong cái từ lục trần, thì đã có thứ nào làm nên tội lỗi cho ai ? Cho nên ta kết luận rõ ràng rằng căn cũng như trần đều không phải là nguyên nhân gây nên tội lỗi. Chẳng những thế mà còn ngược lại: Căn trần đều là những dữ kiện để đạt đạo thành tựu viên thông. Thể nhập sâu sắc tự đáy nguồn chơn lý đó. Lục Tổ Huệ Năng thốt ra bài kệ bất hủ trong các chốn tòng lâm kim cổ:
“Phật pháp tại thế gian Bất ly thế gian giác Ly thế mích Bồ đề
Kháp như cầu thố giác”
Với người giỏi làm kinh tế, họ nhìn ao, hồ, sông, bãi đất hoang họ cũng thấy tiền là tiền, và trong những chỗ đó họ làm ra tiền được. Một lương y thượng hạng với đám cỏ dại mà họ dẫm qua, lá hoa lùm bụi mà họ luồn lách đi vào, trong đó, dưới mắt họ vô vàn diệu dược có thể cải tử hoàn sanh cho những con bệnh đang nằm bên đó mà khổ, mà đau rên siết.
Người học Phật không được quên vấn đề đơn giản mà ý nghĩa báu mầu vô giá này: “Hàng độc giác nhị thừa tư duy quán xét cảnh hoa rơi, trái rụng, lá úa cành khô mà đạt đạo” đấy !
Phản quán sáu căn nội tại, thành A La Hớn quả, chứng được viên thông rõ ràng không phải là việc khó hiểu xa vời. Người có tư duy, muốn đi và khởi sự đi trên con đường giải thoát, nhất định sẽ đến đích Niết bàn Bồ đề vô thượng.
12. DO NHÃN THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Xá Lợi Phất đứng dậy cung kính chấp tay thưa: Bạch Thế Tôn ! Từ nhiều kiếp đến nay, sự nhận thức của tôi thường thanh tịnh. Số kiếp thọ sanh lên xuống nhiều như số cát sông Hằng. Do vậy mà các pháp biến hóa thế gian, xuất thế gian một khi thấy là tôi nhận thức không xa chân lý, được vô chướng ngại. Trong lần gặp gỡ giữa đường, anh em ông Ca Diếp dụng ý theo tôi để thuyết pháp. Các ông nói cho tôi nghe về giáo lý nhân duyên sâu xa của Phật. Nhân buổi đàm đạo đó, tôi được tỏ ngộ; nhận thức được rằng: “Tâm không ngằn mé”. Rồi tôi theo Phật xuất gia. Trí tuệ sáng suốt ngày càng viên mãn, được đại vô úy, thành A La Hớn quả, trưởng tử Phật. Nay Phật hỏi nguyên nhân tỏ ngộ viên thông, xin thưa: Theo chỗ chứng đắc của tôi thì sự nhận thấy rõ ràng, nhận thức đánh giá chính xác đúng như thực của sự vật hiện tượng là thành công ưu việt nhất.
13. DO NHĨ THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Bồ tát Phổ Hiền đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Rằng tôi đã từng làm Pháp vương tử cho các Như Lai nhiều như số cát sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử Bồ Tát tu hạnh Phổ Hiền chính là do dựa theo đức tinh tấn của tôi mà đặt ra cái tên Phổ Hiền Hạnh.
Bạch Thế Tôn ! Tôi sử dụng tánh nghe của tâm mà nhận biết nguyện vọng của chúng sanh, nếu có chúng sanh phát hạnh Phổ Hiền. Do vậy, giả sử ở một phương khác, cách ngoài hằng sa thế giới, có chúng sanh phát hạnh Phổ Hiền thì liền trong lúc ấy, tôi cỡi voi sáu ngà, phân thân trăm nghìn đến chỗ người ấy. Phỏng sử người kia nghiệp chướng sâu dày chưa thấy được tôi, tôi cũng thầm kín xoa đầu an ủi ủng hộ khiến cho sở nguyện
thành tựu. Nay Phật hỏi nguyên nhân tu chứng viên thông, tôi xin thưa: Sử dụng tánh nghe của nội tâm mà nhận biết tự tại, đối với tôi là pháp môn ưu việt nhất.
14. DO TỶ THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Tôn Đà La Nan Đà đứng dậy cung kính chấp tay thưa với Phật: Lúc tôi mới xuất gia theo Phật học đạo, trong khi tu tam ma đề, tâm thường tán loạn. Đức Thế Tôn dạy tôi quán điểm trắng ở chót mũi. Tôi bắt đầu thực hành, trải qua thời gian hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói; thân tâm trong sáng như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần không còn, tâm tôi được khai ngộ, các lậu tận sạch trong, thành A La Hớn. Thế
Tôn thụ ký cho tôi thành quả Bồ đề. Nay Phật hỏi sở nhân được viên thông, xin thưa: Đối với tôi tập trung ý niệm, quán hơi thở và điểm trắng ở tỷ căn là thành tựu hữu hiệu nhất.
15. DO THIỆT THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi từ nhiều kiếp đến nay biện tài vô ngại, tuyên thuyết các pháp: khổ, không, hiểu sâu thật tướng: cho đến những pháp môn bí mật như hằng sa của Như Lai, tôi có thể diễn giảng trước đại chúng không hề có sự sai lầm và sợ sệt. Thế Tôn biết tôi có đại biện tài, dạy tôi tuyên dương chánh pháp, giúp Phật chuyển pháp luân. Tôi nhờ giảng nói chánh pháp mà được quả A La Hớn. Thế Tôn ấn chứng cho tôi là: “thuyết pháp đệ nhất”. Nay Phật hỏi nguyên nhân được viên thông, xin thưa: Tôi dùng pháp âm hàng phục tà ma ngoại, tiêu trừ hoặc lậu là ưu việt nhất.
16. DO THÂN THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Ưu Ba Ly đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Rằng chính tôi theo Phật vượt thành xuất gia. Tôi thấy Như Lai sáu năm cần khổ, cuối cùng hàng phục tà ma, chế ngự ngoại đạo, giải thoát các lậu thế gian. Phật dạy tôi trì giới, giữ gìn tánh nghiệp, giá nghiệp của thân miệng, ý, giữ vẹn ba nghìn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Nhờ vậy, thân tâm tịch tịnh thành quả A La Hớn. Nay làm kỷ cương trong đại chúng, Như Lai ấn chứng tôi là “trì luật đệ nhất”. Hôm nay Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Đối với tôi do giữ gìn thân được thanh tịnh. Thân đã thanh tịnh thì tâm sẽ thanh tịnh theo. Đó là phương pháp uốn dẹp tu sửa thân tâm hữu hiệu nhất.
17. DO Ý THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Đại Mục Kiền Liên đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Rằng lúc nọ tôi đi khất thực giữa đường được ba anh em ông Ca Diếp: Ưu Lâu Tần Loa, ông Dà Gia và Na Đề giảng nói lý nhân duyên thậm thâm của Phật, tâm tôi bừng ngộ thông suốt rỗng rang. Như Lai ban cho ca sa mặc vào thân, râu tóc tự cạo. Tôi có khả năng du hí khắp mười phương không trở ngại. Đại chúng suy tôn tôi là “thần thông đệ nhất”, trong hàng vô học A La Hớn. Nay Phật hỏi viên thông, xin thưa: Tôi xoay ý thức trở về tánh sáng suốt trạm
nhiên. Giống như lóng nước đục, lóng nước lâu trở về tự thể trong sạch. Đó là phương tiện tu sửa đối với tôi hữu hiệu nhất.
TRỰC CHỈ
Thức là dụng của căn, là chủ thể nhận thức phân biệt trần. Đó là tánh thấy của mắt, tánh nghe của tai, tánh ngửi của mũi, tánh nếm của lưỡi, tánh xúc của thân, tánh tư duy của ý. Gọi chung qua cái từ lục thức, tức là sáu công dụng của sáu giác quan.
Năm thức trước tiếp xúc với năm trần sự lượng định để nhận thức, chúng chỉ có hiện lượng. Cho nên chúng chẳng lượng định phân biệt gì. Do đó công dụng của năm thức trước không có ý niệm: mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét… phải, quấy, tốt, xấu, lấy, bỏ, hơn, thua… cho nên năm thức trước không thể tạo nên nghiệp thiện hay ác. Chỉ có ý thức ngoài hiện lượng ra, còn có thêm hai lượng: tỷ và phi lượng.
Năm thức trước, nếu chung khởi với phi lượng của ý thức, sẽ gây ra sự sai quấy hoàn toàn đối với chơn lý.
Năm thức trước nếu chung khởi với tỷ lượng của ý thức thì sự nhận thức của con người có thể đúng mà cũng có thể sai. Nhận thức đúng chơn lý, trường hợp này được gọi là thiện. Nhận thức sai chân lý thì gọi là bất thiện, là ác.
Từ nhận thức đó, ta thấy thức cũng không phải là nguyên nhân để sanh ra thiện ác tội phước.
Tội là do bất giác vô minh, do mê.
Phước thì chỉ cần cảnh giác, cần sáng suốt không mê là trở nên người giác. Cho nên gọi là “tu” không cần phải dựa trên hình thức này, nghi lễ nọ, cúng bái cầu đảo rườm rà. Chỉ cần cảnh giác phiền não: tham, sân, si, mạn… Chỉ cần tâm trí sáng suốt để nhận biết: ta
- bạn – giặc. Đừng để kẻ giặc cướp vô minh phiền não vào nhà chơn tâm thường trú,
thể tánh tịnh minh cướp phá sự nghiệp trí tuệ giác ngộ giải thoát của ta. Chỉ cần không mê thì ta là giác. Chỉ cần không vọng, ta tự sẵn có chơn.
Tu mà chú trọng nhập thất, đóng cửa tự giam mình lễ bái “trú dạ lục thời”, nguyện tụng bộ kinh này, thệ trì danh Phật nọ, hy vọng khấn vái chư Phật mười phương: “thùy từ gia hộ”: “gia hộ cho con hiện tiền tội diệt phước sanh, thiện căn tăng trưởng”, và “tha nhật đắc A Di Đà thọ ký”… Đó là lối tu theo cái đạo cầu bên ngoài. Lục Tổ Huệ Năng gọi hạng người đó là “ngoại đạo”. Ngoại đạo có nghĩa là cái đạo hy vọng ở tha nhân, cái đạo “ngồi chờ sung rụng” vào mồm.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta, từ kim khẩu đã từng thọ ký rằng:
“Tất cả chúng sanh đã thành Phật” (kinh Pháp Hoa)
“Tất cả chúng sanh sẽ thành Phật” (kinh Hoa Nghiêm)
Thọ ký như vậy mà chưa vừa lòng, chưa thỏa mãn hay sao ? Mà còn cầu:
“Tha nhật đắc A Di Đà thọ ký !…” Phật tử chúng ta hãy soát lại lòng mình. Một con người tham lam vô độ, có xứng đáng là đệ tử Phật chưa ? Hàng cư sĩ không có thời giờ học hỏi giáo lý, tham lam cầu: “Tha nhật đắc A Di Đà thọ ký” còn có lý do để tha thứ. Chớ Tăng Ni, người trưởng tử Phật Thích Ca mà không tin lời thọ ký của đức Bổn Sư mình, thì xin ai đó, hãy để lòng tự xét…
Hay là người ta viện lẽ…
“Phật nhà không thiêng…”
18. DO HỎA ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông Ô Sô Sắc Ma đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ những kiếp xa xưa, tánh tôi nhiều tham dục. Bấy giờ nhằm thời Đức Phật Không Vương trụ thế. Đức Không Vương Như Lai bảo rằng: “Người đa dâm như đống lửa hồng”. Rồi Phật dạy tôi quán hơi nóng trong cơ thể cả khắp tứ chi. Nhờ quán như vậy tinh thần sáng suốt, nội tâm đứng lặng, tâm háo dâm trở thành lửa trí tuệ. Từ đó, chư Phật gọi tôi với cái tên Hỏa Đầu. Tôi dùng sức hỏa quang tam muội mà chứng quả A La Hớn. Tôi phát đại nguyện, nếu có chư Phật thành đạo thì tôi làm lực sĩ hầu cận Phật để đánh dẹp bọn tà ma khuấy phá. Nay Phật hỏi nhân duyên được viên thông, xin thưa rằng: Do tôi quán hơi ấm trong thân, lưu thông không ngăn ngại; từ đó các lậu tiêu trừ, sanh lửa trí tuệ. Đối với tôi, đó là pháp tu hữu
hiệu nhất.
19. DO ĐỊA ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Trì Địa Bồ Tát đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Rằng tôi nhớ lại trong những kiếp xa xưa, tôi từng được gặp Phật và cúng dường chư Phật như hằng sa, và cũng
từng phục vụ vô lượng chúng sanh đem đến chúng sanh nhiều lợi lạc. Trong một kiếp nọ, ở vào thời Phật Phổ Quang trụ thế, tôi là một tỳ kheo phát tâm sửa chữa những đoạn đường gồ ghề sụp lở, những bến xe, bến đò bất tiện cho sự đi lại của nhiều người. Ngoài những công trình gánh đất, bưng sỏi, đắp bồi sửa chữa như vậy, tôi còn mang gánh giúp đỡ những người gánh gồng nặng nhọc ở chợ búa mà không lấy tiền công.
Vào thời Phật Tỳ Xá Phù trụ thế, nhân gian nhiều đói kém, tôi phải cỏng giúp nhiều người không kể gần xa mà chỉ lấy một đồng tiền… có lúc tôi ra sức kéo phụ xe trâu qua những nơi quá lầy lội. Có lúc vì Phật tôi sửa đường bằng phẳng đợi Phật đi hóa trai.
Một hôm Đức Tỳ Xá Phù Như Lai đi qua đoạn đường tôi vừa sửa chữa. Phật xoa đầu tôi mà dạy rằng: “Nên bình cái tâm địa thì đất đai trên thế giới đều bình”. Tôi nghe, tâm liền sáng bừng tỏ ngộ. Tôi quán thấy vi trần trong cơ thể cùng tất cả vi trần tạo thành thế giới bên ngoài không sai khác gì nhau. Tự tánh vi trần không chạm sát với nhau, cho đến đao binh các thứ tự nó cũng không va chạm gì. Nhờ nhận thức như vậy, tôi tỏ ngộ vô sanh nhẫn, thành A La Hớn hồi tâm. Nay ở trong hàng Bồ Tát nghe Phật dạy: Tri kiến Phật như diệu liên hoa, tôi lãnh hội trước tiên, đại chúng suy tôn là thượng thủ. Nay Phật hỏi nguyên do đạt đến viên thông, xin thưa: Do tôi quán trần ở nội thân và trần cấu của thế giới bên ngoài bình đẳng không sai khác. Tất cả từ Như Lai tàng tùy duyên biến hiện. Vọng tâm chấp mắc trần tướng tiêu vong thì trí tuệ viên mãn thành đạo Bồ Đề. Đó là đối tượng sở quán, đối với tôi đem lại thành công ưu việt nhất.
20. DO THỦY ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Nguyệt Quang đồng tử đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Rằng tôi nhớ hằng sa kiếp trước có đức Phật ra đời hiệu Thủy Thiên. Thủy Thiên Như Lai dạy các Bồ Tát nên quán về nước để nhập tam ma đề. Phật dạy quán tánh nước không gì lấn cướp làm cho mất hẳn được. Từ nước mắt, nước mũi, nước miếng, nước tiểu, nước tân dịch trong
châu thân… đều quán một tánh nước đồng nhau. Tánh nước trong tự thân cùng tánh nước các bể hương thủy phù trần vương sát của thế giới bên ngoài, đồng nhau không sai khác. Lúc tôi thành tựu pháp thủy quán này, tôi chỉ thấy được tánh đồng của nước mà chưa
thấy được “thân không”. Hồi bấy giờ, tôi là một tỳ kheo tọa thiền trong một tịnh thất, có người đệ tử trông cửa sổ nhìn vào, thấy toàn là nước. Vì nhỏ dại nó liền lấy một miếng ngói ném vào, rồi tự bỏ đi. Khi xuất định tôi thấy tim đau một cách lạ thường. Truy nguyên ra duyên cớ, tôi bảo người đệ tử: Khi tôi nhập định, trông thấy nước trong thất thì hãy vào nhặt miếng ngói mà người đã ném ấy ra. Quả thật, khi xuất định, tôi không còn đau đớn nữa.
Qua vô lượng kiếp sau tôi được gặp vô lượng Phật, nhưng chưa chứng ngộ. Mãi đến thời Sơn hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai thì tôi mới chứng được “không thân”. Bây giờ tôi thấy rõ nước trong tự thân cùng với nước bể Hương Thủy trong mười phương thế giới đồng một tánh chân không, không sai khác. Ở nước Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại, tôi được hiện là Đồng Chân, dự vào hàng Bồ Tát. Nay Phật hỏi nguyên nhân được viên thông, xin thưa: Do tôi quán tánh nước dung thông mà được vô sanh nhẫn. Đối với tôi, pháp Thủy quán là ưu việt nhất.
21. DO PHONG ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ lại hằng sa kiếp trước có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh. Phật khai thị cho các Bồ Tát về: Bản giác diệu minh. Dạy các Bồ Tát quán: Thế giới và chúng sanh đều do sự vận động của sức gió vọng duyên chuyển biến mà hình thành. Riêng tôi, lúc bấy giờ, tôi quán không gian an lập; quán thời gian trôi đi mãi; quán thân, khi động khi dừng; quán tâm, niệm trước diệt, niệm sau sanh… Tất cả những chuyển động biến diệt, tôi thấy không hai không khác. Tôi nhận thức rõ rằng tánh của các thứ động: Đến không chỗ từ, đi không chỗ tới. Tất cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới có trong pháp giới mười phương do sức gió vọng duyên mà hình thành, mà sanh hoạt với nhau trong tánh bản
giác diệu minh, chân tâm minh diệu. Giống như hàng vạn muỗi mòng trong một cái đồ đựng, kêu vo vo rầm rỉ, ào ào rối rít với nhau.
Tôi quán sát tư duy như vậy, không bao lâu, tôi được vô sanh pháp nhẫn làm vị Pháp Vương tử. Nay Phật hỏi viên thông, xin thưa: Do tôi quán tánh phong đại “đi không chỗ từ, đến không chỗ tới” mà tỏ ngộ tâm Bồ Đề. Đối với tôi thì quán phong đại là đệ nhất.
22. DO KHÔNG ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ lại tôi cùng Như Lai đồng chứng được “vô biên thân” hồi thời Phật Định Quang. Lúc đó tay tôi cầm bốn đại bảo châu chiếu sáng cõi Phật mười phương như số vi trần đều hóa thành hư không. Bấy giờ tâm tôi sáng suốt thành trí Đại Viên Cảnh. Tôi quán sát khắp phù trần hương sát cùng tột hư không, nhập vào thân tôi. Thân tôi và hư không không ngăn ngại gì nhau. Do vậy, tôi khéo vận dụng hài hòa vào cõi nước như vi trần làm Phật sự được thuận lợi lớn lao. Sức thần to lớn đó do tôi quán sát tứ đại không có chỗ sở y. Do vọng tưởng
mà thấy có diệt có sanh. Hư không không hai, cõi Phật vốn đồng. Do tôi phát minh được tánh đồng mà chứng được vô sanh pháp nhẫn. Nay Phật hỏi duyên nhơn nào được viên thông, xin thưa: Do tôi quán chiếu hư không vô biên mà thể nhập tam ma đề là phương tiện ưu việt nhất.
23. DO THỨC ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Di Lặc Bồ Tát đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ lại vi trần kiếp
trước có Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Tôi được theo Phật xuất gia, nhưng tâm còn trọng hư danh thế gian, ưa giao du với các hàng vọng tộc. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dạy tôi tu tập định: Duy tâm thức và tôi được nhập tam ma đề. Trải hằng sa số kiếp đến nay, tôi sử dụng tam muội ấy, phụng sự hằng sa chư Phật, tâm cầu danh, được diệt hết. Đến thời Phật Nhiên Đăng ra đời tôi mới chứng được tam muội thức tâm diệu viên vô thượng. Bấy giờ tôi quán thấy cõi nước của chư Như Lai, tột bờ mé hư không, tịnh uế, có không đều do thức tâm biến hiện.
Bạch Thế Tôn ! Do tôi tỏ ngộ Duy tâm thức, thức tánh của tôi xuất hiện vô lượng Như
Lai, và hiện nay được Phật thọ ký, tôi sẽ được bổ xứ thành Phật ở cõi Ta Bà sau này. Nay
Phật hỏi nguyên nhân viên thông, xin thưa: Tôi quán mười phương đều Duy thức. Thức tâm tròn sáng thì xa lìa tánh biến kế, nhận thức đúng thực thể của tánh y tha khởi thì chứng nhập tánh viên thành thật, được vô sanh nhẫn. Đối với tôi đó là pháp quán ưu việt nhất.
24. DO KIẾN ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vị Bồ Tát đồng tu một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng Quang. Thời đó có 12 đức Phật ra đời trong một kiếp. Đức Phật sau hết hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy cho tôi phép niệm Phật tam muội: Rằng Thập phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con cũng đồng nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì đời đời mẹ con không xa cách. Tâm chúng sanh nhớ tưởng Phật thì tâm ấy là Phật. Nhất định thấy Phật, không cần phương tiện nào khác. Ví như người ướp hương thì toàn thân thể sẽ thành thơm, ấy gọi là hương quang trang nghhiêm. Chính tôi nhờ niệm Phật mà được vô sanh nhẫn. Nay ở cõi Ta Bà, tôi nguyện hướng dẫn người niệm Phật để có được tịnh độ. Phật hỏi nhân duyên nào được viên thông, xin thưa: Tôi thu nhiếp tất cả sáu căn không vọng niệm. Do chánh niệm tương tục mà được tam ma đề đối với tôi đấy là pháp môn thù thắng nhất.
TRỰC CHỈ
Đại có nghĩa là bao trùm phổ biến khắp không gian và thời gian. Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức. Phật học gọi đó là thất đại, vì bảy thứ này phổ biến không chỗ nào không có. Không gian, thời gian, hàm tàng thất đại không dư không thiếu; nói cách khác tự thể không gian, thời gian là thất đại ấy. Nếu tách bỏ thất đại ra, không thể có khái niệm không gian và thời gian. Do thất đại mà khái niệm không gian và thời gian được cụ thể hóa, được hình thành. Thất đại là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng vạn hữu,
duyên khởi sanh ra hiện tượng vạn hữu. Tuy nhiên nó chưa phải là một đơn vị thực thể cố định bất di bất dịch, một yếu tố đầu tiên của hiện tượng vạn hữu nào. Theo Phật học, không có một sự vật nào có một thực thể cố định bất di bất dịch của tự nó. Không có một sự vật nào sanh ra mà không kết hợp tương quan với những yếu tố khác. Chỉ len đan thành chiếc áo len, nhưng chỉ len không phải là yếu tố đầu tiên của chiếc áo len ấy. Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức là những hình thái của chủng tử được biểu hiện rõ
nét hơn trong Như Lai tàng bản thể mà thôi.
Nếu hòa hợp bởi năm đại: Địa, thủy, hỏa, phong và không là đủ yếu tố duyên khởi ra núi sông, đất liền, cây cỏ… trong vũ trụ.
Nếu hòa hợp đủ bảy đại thì sẽ duyên khởi sanh ra những loại chúng sanh có tri giác trong vũ trụ.
Trong các loại hữu tình có giác tri, con người là ưu việt nhất.
Núi sông đất liền cỏ cây hoa lá gọi là khí thế gian hoặc cũng gọi là vô tình chúng sanh. Những loài có tri giác gọi là chánh báo thế gian cũng gọi là hữu tình chúng sanh.
Nhìn bên khí thế gian để tìm hiểu nguyên ủy của hiện tượng vạn hữu, người ta gọi đó là
vũ trụ quan.
Nhìn bên hữu tình thế gian để tìm hiểu nguồn gốc nguyên thỉ của con người, người ta gọi
đó là nhân sanh quan.
Qua giáo lý đoạn kinh Thủ Lăng Nghiêm này, ta thấy vũ trụ nhân sanh đồng một bản thể. Như Lai tàng bản thể duyên sanh hiện tượng vạn hữu như nước duyên khởi sóng mòi bọt bong bóng vậy. Với cái nhìn của người đạt đạo, nhận thức rõ chân lý của hiện tượng vạn pháp qua quy luật: tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên; người ta tự tại an nhiên thoải mái cả trong vấn đề sống chết:
“Trường không túng sử song phi cốc
Cự hải hà phòng nhất điểm âu”.
Tuệ Trung thượng sĩ, một thiền sư Việt Nam đời Trần, quan niệm sự sống chết dễ dàng, không chút sợ sệt, lo âu như vậy. Tạm dịch hai câu thơ đó như sau:
“Cổ xe ảo ảnh trong không
Có ai tham đắm nặng lòng ước ao ?
Mặt hồ sóng bọt lao xao
Có ai đau khổ bọt tan sóng bình” ?
Do con người nhận thức sai lầm vạn hữu, đánh giá quá thấp hoặc quá cao. Sự sai lầm đó, phủ lên hiện tượng vạn hữu lớp sương mù “biến kế chấp” làm cho con người không nhận được thực chất “y tha duyên” của hiện tượng vạn hữu. Do đó càng không thể biết được nguồn gốc thanh tịnh bản nhiên của “viên thành thật” trong bản thể Như Lai tàng. Do đó vọng sanh quan niệm: Sanh, diệt, hữu, vô, đoạn, thường, khứ, lai… loạn khởi.
Các Bồ Tát ngược dòng quán chiếu, thấy rõ sự thật “y tha” dùng đuốc trí tuệ rọi tan sương mù “biến kế”, nhận chân cái thật tánh “viên thành” của thất đại. Thì ra: địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức vốn là chân không thanh tịnh bản nhiên, châu biến pháp giới. Không có một pháp nào mang theo, đem đến cho ai một mảy may vương víu một tí tị phiền não khổ đau nào !
Do vậy, 25 vị thánh đệ tử, dựa trên căn trần, thức và thất đại đều chứng được quả giải thoát viên thông.









CHƯƠNG THỨ SÁU
DO NHĨ CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRẦN THUẬT PHÁP TU CHỨNG CỦA MÌNH
Khi bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm đứng dậy cung kính chấp tay thưa: Bạch Thế Tôn !
Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước, có đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm và tôi đã phát Bồ Đề tâm thời ấy. Đức Phật Quán Thế Âm dạy tôi phương pháp nghe, suy nghĩ và tu để được thể nhập tam ma đề (chánh định).
Bạch Thế Tôn ! Trước hết tôi sử dụng tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi tôi xóa đi ý niệm động tĩnh ấy; từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, tôi dứt được năng văn và sở văn. Sức

tịch tĩnh không dừng ở đó bấy giờ giác tánh tôi lại hiển hiện ra. Tôi tiếp tục tư duy: Dù là giác tánh nhưng tánh “năng giác”, “sở giác” hãy còn, tôi bèn xóa đi về ý niệm giác; bấy giờ tâm tánh tôi rỗng rang lặng lẽ như hư không. Tôi lại diệt đi cái giác tri “như hư không” ấy. Cuối cùng tôi diệt cả cái khái niệm “diệt”. Khi tôi diệt hết khái niệm vi tế về “diệt sanh, sanh diệt” bỗng dưng tôi nhận thấy toàn thể pháp giới trong mười phương chỉ còn là cảnh giới “bất nhị” tịch diệt hiện tiền. Tâm tánh của tôi viên mãn khắp giáp mười phương vượt hẳn tầm nhận thức thường tình của thế gian, tôi được hai món thù thắng: Một là tâm tôi hợp với bản giác nhiệm mầu của mười phương Như Lai, đồng một từ tâm hướng hạ cứu độ chúng sanh. Hai là hợp với tâm của lục đạo chúng sanh trong mười phương, đồng một bi tâm hướng thượng cầu vô thượng Bồ Đề.
DO TỪ TÂM BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM HIỆN 32 ỨNG THÂN
Bạch Thế Tôn ! Do tôi cúng dường Quán Thế Âm Như Lai, được Phật truyền thụ cho tôi như huyễn văn huân văn tu kim cang tam muội nên thân tôi thành tựu 32 ứng thân vào các cõi nước.
Bạch Thế Tôn !
1. Nếu các Bồ Tát vào tam mà đề tiến tu pháp vô lậu, thắng giải viên mãn, tôi hiện thân
Phật vì họ mà thuyết pháp khiến cho được giải thoát.
2. Nếu các hàng hữu học tu pháp tịch tĩnh diệu minh viên mãn, tôi hiện thân Độc Giác vì họ mà thuyết pháp.
3. Nếu các hàng hữu học đoạn 12 nhơn duyên, phát ra thắng tánh viên mãn, tôi hiện thân
Duyên Giác vì họ mà thuyết pháp.
4. Nếu các hàng hữu học được pháp không của tứ đế, tu đạo đế, thể nhập diệt đế, thắng tánh viên mãn, tôi hiện thân Thanh Văn vì họ mà thuyết pháp.
5. Nếu chúng sanh muốn tâm tỏ ngộ, không vướng vào ngũ dục, muốn thân được thanh tịnh, tôi hiện thân Phạm Vương vì họ mà thuyết pháp.
6. Nếu chúng sanh muốn làm thiên chủ thống lãnh chư thiên, tôi hiện thân Đế Thích vì họ
mà thuyết pháp.
7. Nếu chúng sanh muốn thân được tự tại dạo khắp mười phương, tôi hiện thân Tự Tại
Thiên vì họ mà thuyết pháp.
8. Nếu chúng sanh muốn thân được tự tại, bay đi trên hư không, tôi hiện thân Đại Tự Tại
Thiên vì họ mà thuyết pháp.
9. Nếu có chúng sanh thích thống lãnh quỷ thần cứu quốc hộ dân, tôi hiện thân Thiên Đại
Tướng Quân, vì họ mà thuyết pháp.
10. Nếu chúng sanh muốn thống lãnh quỷ thần, cứu giúp cõi nước, tôi hiện thân Thiên
Đại Tướng Quân vì họ mà thuyết pháp.
11. Nếu các chúng sanh muốn sanh ở thiên cung, tôi hiện thân Thái tử, con Tứ Thiên
Vương vì họ mà thuyết pháp.
12. Nếu các chúng sanh muốn làm vua cõi người, tôi hiện thân Vua vì họ mà thuyết pháp.
13. Nếu các chúng sanh muốn làm chủ gia đình danh tiếng, thế gian kính nhường, tôi hiện thân Trưởng giả vì họ mà thuyết pháp.
14. Nếu các chúng sanh thích luận lời hay, giữ mình trong sạch tôi hiện thân Cư sĩ vì họ
mà thuyết pháp.
15. Nếu các chúng sanh muốn kinh bang tế thế, tôi hiện thân Tể quan vì họ mà thuyết pháp.
16. Nếu các chúng sanh thích chú thuật toán số, thu nhiếp nhân tâm, tôi hiện thân Bà La
Môn vì họ mà thuyết pháp.
17. Nếu các thiện nam muốn xuất gia tu học, tôi hiện thân tỳ khưu vì họ mà thuyết pháp.
18. Nếu có người tín nữ muốn xuất gia, tôi hiện thân tỳ khưu ni vì họ mà thuyết pháp.
19. Nếu có người thiện nam muốn giữ giới tu hành, tôi hiện thân ưu bà tắc vì họ mà thuyết pháp.
20. Nếu có người tín nữ, muốn thọ năm giới tập tu, tôi hiện thân ưu bà di vì họ mà thuyết pháp.
21. Nếu có người nữ thích đường chánh trị phụ quốc an bang tôi hiện thân mệnh phụ phu nhân, thân nữ chúa vì họ mà thuyết pháp.
22. Nếu có chúng sanh nam căn chưa ô nhiễm, tôi hiện thân đồng nam vì họ mà thuyết pháp.
23. Nếu có người nữ thích thân xử nữ, tôi hiện thân đồng nữ vì họ mà thuyết pháp.
24. Nếu có hàng chư thiên muốn ra khỏi loài trời, tôi hiện thân Chư Thiên vì họ mà thuyết pháp.
25. Nếu có rồng muốn ra khỏi loài rồng, tôi hiện thân rồng vì họ mà thuyết pháp.
26. Nếu có dược xoa muốn ra khỏi loài mình, tôi hiện thân dược xoa vì họ mà thuyết pháp.
27. Nếu có càn thát bà muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân càn thát bà vì họ mà thuyết pháp.
28. Nếu có a tu la muốn ra khỏi loài mình, tôi hiện thân a tu la vì họ mà thuyết pháp.
29. Nếu có khẩn na la muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân khẩn na la vì họ mà thuyết pháp.
30. Nếu có ma hầu la già muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân ma hầu la già vì họ mà thuyết pháp.
31. Nếu có chúng sanh thích làm người, tôi hiện thân người vì họ mà thuyết pháp.
32. Nếu có loài phi nhân hoặc có hình hoặc không hình, hoặc có tưởng hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân như họ vì họ mà thuyết pháp.
Đó là 32 ứng thân nhiệm mầu có thể hiện vào các cõi nước trong mười phương, do kết quả của văn huân văn tu tam muội mà thành tựu sức nhiệm mầu “vô tác” như vậy.
TRỰC CHỈ
Ở đoạn kinh trước, Phật gạn hỏi đại chúng về nguyên nhân của sự đạt đạo được viên thông, thứ lớp trước sau có 25 vị Thánh đệ tử, mỗi người đều trình bày cái nguyên nhân chứng đắc của mình.
Như chúng ta đã biết, 6 căn, 6 trần, 6 thức và 7 đại đều là dữ kiện tạo nên Thánh quả chứng đắc viên thông. Nhĩ căn viên thông lẽ ra phải được theo thứ lớp mà trình bày ở trong nhóm người dựa trên 6 căn được viên thông ở đoạn kinh trước. Nhưng ở đây trái lại, nhĩ căn viên thông được Bồ Tát Quán Thế Âm trình bày sau rốt. Đó không phải là một sự kiện bình thường càng không nên hiểu đó là sự ngẫu nhiên hay do sơ sót, mà đó là tánh chất trọng đại của nhĩ căn, ta sẽ thấy rõ ở đoạn kinh sau.
Hằng hà sa số kiếp trước có Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, đến thời Phật Thích Ca lại có Bồ Tát cùng hiệu Quán Thế Âm. Điều này nhằm dạy cho mọi người đệ tử Phật phải hiểu rằng: Cùng là nhĩ căn năng văn; cùng là âm trần sở văn, mà người sử dụng khác nhau thì hiệu quả giải thoát giác ngộ cũng khác nhau.
Quán là trí quán niệm của con người.
Âm là đối tượng nghe, là thang trần đó.
Niệm quán âm là chỉ cho lúc trí năng quán và âm văn sở quán chưa được thường xuyên liên tục. Khi con người vận dụng trí năng quán và âm văn sở quán không gián đoạn, chính lúc đó là Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân trong ta, thuyết pháp cho ta nghe rồi đó.
Kinh nói: Bồ Tát hiện 32 ứng thân vào các cõi nước khắp mười phương thuyết pháp cho chúng sanh theo sở thích đáp ứng theo yêu cầu của họ. Sự kiện này phải được hiểu rằng tất cả chúng sanh trừ ba hạng người ác nghiệp cực trọng ở loài địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, còn lại tất cả mọi hạng người từ phàm phu đến Thánh vị đều có thể được Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân cứu độ. Nói một cách khác là những bậc thượng căn phát tâm tu hành cầu thành Phật quả cho đến những người hạ trí, nhơn và phi nhơn đều có khả năng quán niệm về âm văn để được có an lành, tự tại giải thoát và giác ngộ theo khả năng trình độ của chính bản thân mình.
Nếu có ít nhiều thiền định tư duy nếu biết dụng ý lắng nghe người ta có thể nghe trong mọi nơi chốn, mọi trường hợp những âm văn thanh tịnh giải thoát. Âm văn đó, nghe được nhiều hay ít là do ta vận dụng quán trí của ta nó liên tục được ít hay nhiều. Cho nên kinh nói: Quán Thế Âm hiện thân thuyết pháp cho chúng sanh bằng “Vô tác diệu lực” nghĩa là bằng sức mầu nhiệm “không có làm”. Nói “hiện thân” nhưng kỳ thực chẳng tốn sức “thần biến” “hóa hiện” ra thân. Nói “thuyết pháp” kỳ thực chẳng tốn một tí hơi và
một âm thanh nào vang dội. Quán Thế Âm hiện thân bằng chính bản thân của mọi người.
Quán Thế Âm thuyết pháp bằng chính âm thanh thanh tịnh trong lòng trong sáng của mọi người, khi người đó biết sử dụng tánh nghe.
Quán Thế Âm là Diệu âm; Quán Thế Âm là Phạm âm; Quán Thế Âm là Hải Triều âm; Quán Thế Âm còn là âm thanh vượt hơn những âm thanh của thế gian thường nghe và xưng gọi ấy nữa. Quán Thế Âm là Thánh của thanh tịnh, của giải thoát và giác ngộ; vì tánh quan trọng tàng ẩn một chân lý thẩm sâu, nên đặt cách để vấn đề nhĩ căn viên thông của Bồ Tát Quán Thế Âm rốt sau 25 vị Thánh.
DO BI TÂM BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM THÀNH TỰU
14 ĐỨC VÔ ÚY THÍ
Bạch Thế Tôn ! Do vô tác diệu lực VĂN HUÂN VĂN TU kim cang tam muội cho nên tôi và tất cả lục đạo chúng sanh trong mười phương ba đời cùng có một bi tâm hướng thượng cho nên tôi và tất cả chúng sanh thành tựu được 14 thứ công đức vô úy:
1. Tôi không quán âm thanh đối tượng mà tôi quán cái tâm năng quán của mình, khiến cho chúng sanh khổ não trong mười phương quán âm thanh như vậy thì được giải thoát.
2. Tôi xoay tri kiến của mình soi rọi nội tâm, khiến chúng sanh dù vào trong lửa mà lửa không đốt cháy (lửa dâm, lửa sân, lửa hận thù…)
3. Tôi quán tánh nghe xoay vào nội tâm, khiến chúng sanh dù có bị nước to cuốn đi mà không hề bị chìm đắm (nước ái, nước nhẹ dạ yếu lòng, nước yêu thương mù quáng…).
4. Tôi đoạn diệt hết vọng tưởng, không còn tâm sát hại, khiến chúng sanh dù phải vào trong cõi nước của quỷ, quỷ cũng không hại được (quỷ sát, quỷ đạo, quỷ dâm, quỷ thấy ác… nghe ác và làm ác…).
5. Tôi huân tập cái tánh nghe, nghe vào tự tánh. Tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc, biết cũng như vậy, khiến chúng sanh đang khi bị hại dao mác, vũ khí gãy rơi từng khúc chẳng xúc phạm được (dao hai lưỡi, dao ưu sầu, dao tâm…).
6. Tánh nghe, tôi huân tập đến độ tinh thuần, sáng suốt khắp trùm pháp giới; tất cả những gì đen tối không tồn tại được, khiến cho chúng sanh dù ở gần bên với ác quỷ: Dược xoa, cưu bàn trà, tỳ xá xà, phú đơn na v.v… mà chúng không nhìn thấy được (quỷ thô bạo,
quỷ bất nghĩa, quỷ vô lương…).
7. Tánh năng văn tôi quán xoay vào, thanh trần đối tượng tiêu vong, khiến chúng sanh xa tránh tất cả gông cùm xiềng xích không vương chạm đến thân (gông luật pháp, cùm hận thù vay trả, thích đấu tranh thị phi ân oán giang hồ…).
8. Tôi diệt âm thanh đối tượng, tánh nghe viên mãn sanh sức từ cùng khắp, khiến chúng sanh đi qua đường hiểm mà giặc cướp không thể cướp được (giặc phiền não có 6 thằng túc trực phục kích ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý để cướp của báu công đức của ta).
9. Do tôi huân tập tánh nghe được thanh tịnh, tách khỏi trần tướng. Sắc, thanh… không cám dỗ được, khiến cho những chúng sanh đa dâm xa lìa được lòng tham dục nặng nề.
10. Tôi chỉ lưu lại thuần một viên âm thanh tịnh, không còn đối tượng thanh trần, căn cảnh viên dung, dứt đối đãi năng văn sở văn khiến chúng sanh xa lìa được tham sân si phẩn nhuế.
11. Tiêu diệt thanh trần đối tượng tôi xoay cái nghe về tánh bản minh, thân tâm cảnh giới trong sáng như lưu ly, chẳng vương chút trần ai vọng chấp, khiến chúng sanh xiển đề mê tối xa lìa câm điếc tối tăm (nói không chơn lý là câm, không nghe nổi chơn lý là điếc, không nhận được chân lý là tối tăm).
12. Viên dung các hiện tượng, tôi xoay tánh nghe trở về bất động. Hài hòa thế gian mà không hủy hoại thế gian; cúng dường Như Lai mười phương như số vi trần, tôi ở bên mỗi mỗi Phật làm Pháp Vương Tử, khiến trong pháp giới những chúng sanh không con, cầu
có con trai, sanh được con trai phúc đức trí tuệ (phúc đức trí tuệ chính là con trai đó !).
13. Sáu căn tôi viên thông, soi sáng không hai, khắp trùm thập phương thế giới, đứng trước đại viên kính ở trong Như Lai tàng, tôi vâng lãnh những pháp môn bí mật của thập phương Như Lai như vi trần không hề thiếu sót, khiến cho trong pháp giới những chúng sanh không con, cầu có con gái, sanh được con gái tướng tốt đoan chính, phúc đức và dịu dàng được nhiều người kính quý.
14. Trong tam thiên đại thiên thế giới này các Pháp Vương Tử đông như số cát 62 sông Hằng. Trí tuệ và phương tiện giáo hóa chúng sanh mỗi Ngài đều khác. Vậy mà chúng sanh chấp trì một danh hiệu của tôi, bằng ngang với công đức chấp trì danh hiệu số lượng Pháp Vương Tử nói trên.
Bạch Thế Tôn ! Sở dĩ tôi được những điều ưu việt như vậy là do tôi tu tập pháp văn huân văn tu kim cang tam muội, cho nên tôi được tánh viên thông chơn thật, gọi đó là 14 đức vô úy thí đem lại phúc lành cho tất cả chúng sanh.
TRỰC CHỈ
Nếu mọi người đệ tử Phật biết quay về quán chiếu cái âm văn của chính mình thì Quán Thế Âm Bồ Tát thể nhập vào thân ta rồi vậy. Thân tâm ta lúc bấy giờ trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát vì chính ta là người đang quán cái âm văn mầu nhiệm thanh tịnh sẵn có ở lòng mình.
Kinh nói: “Do vô tác diệu lực văn huân văn tu kim cang tam muội cho nên tôi và tất cả lục đạo chúng sanh trong mười phương ba đời cùng có một bi tâm như nhau, cho nên tôi và tất cả chúng sanh thành tựu được 14 thứ công đức vô úy thí”.
Rằng do 14 đức “vô úy thí” của Quán Thế Âm mà khiến cho chúng sanh xa lìa các khổ nạn…, nhưng xét thâm nghĩa tàng ẩn bên trong giáo lý, ta thấy: “Không phải do Quán Thế Âm có 14 đức vô úy thí rồi Bồ Tát đem bố thí để thay thế để cứu khổ cứu nạn chúng sanh. Sự thật, Kinh đã nói: Quán Thế Âm và tất cả chúng sanh trong mười phương cùng có lòng Bi như nhau, ý chí hướng thượng như nhau (Bi ngưỡng); cho nên nói rằng Quán Thế Âm có, đồng nghĩa với tất cả chúng sanh cũng đã có. Quán Thế Âm tu pháp văn huân văn tu Kim Cang tam muội đã được tự tại giải thoát thì chúng sanh hành theo pháp văn huân văn tu… rồi cũng được giải thoát xa lìa tất cả khổ ác là lẽ tất nhiên.
Là đệ tử Phật hãy chín chắn tư duy. Đừng để thói quen ỷ lại nơi cái gọi là “tha lực” siêu hình ám ảnh, trông cậy Quán Thế Âm bằng những ý niệm mong chờ mòn mỏi, những ngôn ngữ cầu khẩn thiết tha mà thiệt mất một đời: “vào biển tính số cát, đến ngân khố đếm tiền” vô ích cho bản thân một kiếp !
Đức Thế Tôn ta hy sinh cả cuộc đời vương giả, đi tìm chân lý chẳng ngại gian lao… Rồi
49 năm dài, rày đây mai đó thuyết giáo độ sanh nói hẹp, nói rộng, nói biệt, nói viên, nói tiệm, nói đốn, vận dụng vô vàn phương tiện, để lại cho chúng ta ba kho tàng giáo lý. Đó không phải là “Tha lực Phật” gia bị cho chúng ta là gì ? Là đệ tử Phật mà phủ nhận “Tha lực Phật” “Tha lực Bồ Tát” gia bị là bọn con cái của ma, nhưng toàn bộ giáo lý Phật trước sau như một, không có vấn đề ân sủng ô dù, vì ô dù ân sủng là hành động phản bội quy luật nhân quả phát triển khách quan của hiện tượng vạn hữu trong vũ trụ.
QUÁN THẾ ÂM CÓ BỐN ĐỨC NHIỆM MẦU
KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
Bạch Thế Tôn ! Tôi được viên thông vô thượng cho nên có bốn đức vô tác nhiệm mầu không thể nghĩ bàn:
1. Tôi xoay tánh nghe để nghe tiếng mầu nhiệm của nội tâm. Tánh nghe này không chút nhiễm ô. Tôi ngăn dứt tất cả âm thanh đối tượng của nhĩ căn; bấy giờ tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của sáu căn còn là một tánh giác thanh tịnh có thể dùng thay thế cho nhau mà không ngăn ngại. Tôi còn có thể hiện ra nhiều hình tướng và nói vô số chân ngôn bí mật; từ 1 đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, 108 đầu, 1.000 đầu, 10.000 đầu
cho đến 84.000 đầu. Tôi có thể hiện ra 2 tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay, 14 tay, 16 tay, 18 tay, 20 tay, 24 tay, 108 tay rồi 1.000 tay, 10.000 tay cho đến 84.000 tay uyển chuyển. Tôi có thể hiện ra 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, 108 mắt, rồi 1.000 mắt, 10.000 mắt, cho đến 84.000 mắt thanh tịnh, hoặc từ, hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ cứu độ chúng sanh được đại tự tại.
2. Tánh nghe và suy nghĩ của tôi thoát ngoài sáu trần, như âm thanh luồn xuyên qua vách. Do sức nhiệm mầu vô tác, tôi hiện nhiều hình tướng nói nhiều chơn ngôn đem lại cho chúng sanh sức vô úy. Vì vậy cõi nước trong mười phương nhiều như vi trần đều gọi tôi
là vị Bồ Tát “thí vô úy”.
3. Sự tu tập của tôi là phát huy căn bản thanh tịnh sẵn có nên tôi được viên thông mầu nhiệm. Đi đến thế giới nào, chúng sanh cũng xả thân, hy sinh trân bảo cầu được tôi thương xót.
4. Tôi có được Phật tâm, chứng ngộ đến chỗ cứu cánh cho nên có thể đem các thứ trân bảo cúng dường thập phương Như Lai. Đến như lục đạo chúng sanh trong pháp giới muốn cầu trường thọ được trường thọ, cho đến cầu đại niết bàn cũng được đại niết bàn.
Bạch Thế Tôn ! Nay Phật hỏi nguyên nhân chứng đắc viên thông xin thưa rằng: Tôi từ cửa ngõ nhĩ căn quán chiếu đến tột cùng viên mãn về âm văn (nghe và tiếng) mà được tam muội. Đối với tôi, tư duy và quán chiếu tánh nghe và tiếng của nhĩ căn là ưu việt nhất.
Bạch Thế Tôn ! Đức Quán Âm Như Lai từ thuở xa xưa ấy đã khen tôi khéo được pháp môn viên thông, ở trong đại chúng, Phật thọ ký cho tôi danh hiệu Quán Thế Âm bởi vì tánh nghe và thấy tròn sáng châu biến mười phương, danh hiệu Quán Thế Âm cũng phổ cập trong lục đạo chúng sanh mười phương thế giới.
TRỰC CHỈ
Như chúng ta đã biết, Quán Âm hay Quán Thế Âm chỉ là nhân cách hóa một pháp môn chỉ quán mà lục đạo chúng sanh trong mười phương ai cũng sẵn có cái khả năng chỉ quán như vậy để được chứng viên thông. Người đệ tử Phật có tư duy yên tĩnh có thực hành chỉ quán sẽ nghe được tiếng lương tâm mầu nhiệm của mình, không cần có thanh trần đối tượng. Chừng nào hành giả nghe được âm vang đó thường xuyên liên tục ở lòng mình thì 32 ứng thân, 14 đức vô úy, 4 diệu đức nhiệm mầu chỉ là sự biểu hiện vô tác, không cần gắng sức dụng công mà tự có, như ánh sáng sẵn có của mặt trời rạng rỡ buổi ban mai.
Nhiều đầu tất nhiên nhiều óc. Có được nhiều bộ óc, con người sẽ có khả năng tư duy nhận thức nhiều. Người không có tư duy không thể là người thông minh được. Nhận thức chân lý, đòi hỏi phải nhiều tư duy hơn cả người thông minh của thế trí. Do vậy, Bồ Tát cần có nhiều đầu, nhiều bộ óc để tư duy.
Mắt để mà thấy. Thấy để mà nhận biết. Muốn thấy nhiều cần có mắt nhiều. Là đệ tử Phật, phàm phu cũng như thánh vị, phát chí tu nhân, ai cũng mong giác ngộ chân lý giải thoát vô minh, cho nên cần thấy nhiều để nhận thức, biết nhiều để quán sát tư duy. Một tướng lãnh ở thời đại văn minh khoa học quan sát chiến trường cần có viễn vọng kính để tầm quan sát được rộng xa, để nhận thức đánh giá lực lượng tương quan giữa quân ta và quân địch. Sự “hóa hiện” nhiều mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm nhằm dạy bảo mọi người
đệ tử Phật về sự cần thiết: thấy xa và hiểu rộng.
Tay để mà làm việc. Mọi thành tựu cụ thể trong cuộc sống con người là do tay. Nói cách khác, tay là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện, cụ thể hóa nguồn trí tuệ thông qua bộ óc điều khiển của con người. Trí tuệ, tài năng hay sự khéo léo… không thể không biểu lộ
qua sự thực hiện của tay.
Bồ Tát là người đang đi trên đường tìm chân lý, vì cần tư duy nhiều nên nói Bồ Tát đầu nhiều; vì cần thấy biết nhiều nên nói mắt nhiều; vì cần thực hành nhiều nên nói tay nhiều; vì cần tri hành hợp nhất cho nên nói Bồ Tát nhiều đầu, nhiều mắt và nhiều tay.
Sự thật tất nhiên, không thể có một con người đầu, mắt loạn khởi, tay mọc tua tủa, nhìn qua như trái lôm chôm. Nếu có một con người thật như vậy thì quả là một quái thai vô tiền khoáng hậu !
Đức Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật. Phật là đấng lưỡng túc tôn, lưỡng túc tề tôn. Chẳng lẽ Quán Thế Âm vượt ngoài hàng “lưỡng túc” của thập giới thánh phàm ? Người đệ tử Phật hãy sử dụng lý trí mà tư duy. Đừng để cho Phật đau lòng chỉ vì “Y Kinh giải nghĩa mà hàm oan cho ba đời chư Phật”.
PHẬT BẢO VĂN THÙ SO SÁNH CHỌN CĂN ƯU VIỆT NHẤT
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, ngũ thể đồng phóng ra ánh sáng báu soi sáng trên đảnh của thập phương Như Lai, các pháp vương tử, các Bồ Tát như số vi trần. Chư Như Lai trong mười phương cũng phóng ánh sáng như vậy soi đến đảnh Phật Thích Ca và các Bồ Tát các chúng Thanh Văn trong đại hội. Rừng cây ao hồ đều diễn ra tiếng pháp, ánh sáng của chư Phật giao xen như lưới tơ báu. Tất cả đại chúng được cái chưa từng có. Trời mưa hoa sen báu đủ màu: Xanh, vàng, đỏ, trắng xen lộn lẫn nhau. Thập phương hư không thành màu thất bảo. Cõi Ta bà bỗng nhiên không hiện chỉ còn thấy vi trần quốc độ trong mười phương hợp thành một cõi, tiếng ca ngâm thanh thoát tự nhiên dìu dặt nổi lên.
Phật bảo Bồ Tát Văn Thù: Ông hãy xét nghiệm thành quả tu chứng viên thông của 25 vị Bồ Tát và Thanh Văn vừa đã trình bày. Vẫn biết rằng lục căn, lục trần, lục thức, thất đại đều là những dữ kiện tu chứng viên thông, nhưng nay Như Lai muốn cho ông A Nan nghe và nhận xét để tự chọn một pháp môn tu thích hợp. Như Lai cũng cần một pháp môn phương tiện để dạy cho chúng sanh mạt thế cõi Ta bà, những người đại thừa cầu vô thượng đạo một phương pháp tu hành tu hành hiệu quả tốt, chóng thành công phổ biến mọi căn cơ sau Như Lai diệt độ.
Bồ Tát Văn Thù vâng từ chỉ của Phật cung kính chấp tay, nói bài kệ kính dâng lên Phật: Biển giác tánh lặng trong
Vốn nhiệm mầu trong sáng
Tánh bản minh chiếu ra như “sở” Chấp tướng “sở” mất tánh bản minh Do phân biệt vọng thấy hư không Tựa hư không hình thành thế giới Chủng tử vô tri thành cõi nước
Sắc tâm minh liễu tức nhơn sinh Hư không sanh trong “Đại Giác” Như bong bóng nổi giữa đại dương Cõi nước hữu lậu như vi trần
Sanh khởi trong bầu hư không ấy Hư không chưa ví tày nước bể ! Thì sá chi ba cõi vốn bọt bèo
Về nguồn không hai đích Phương tiện có nhiều đường Quả chứng chẳng ngại nhau Thuận nghịch là phương tiện Sơ tâm vào tam muội
Mau chậm chẳng đồng nhau.
TRỰC CHỈ
Phật Thích Ca ở cõi Ta bà cùng chư Phật mười phương đồng phóng ra ánh sáng báu… Hiện tượng này nhằm nói lên chân lý: Phật và chư Phật đã biểu đồng tình. Chơn lý mà Phật Thích Ca nói cũng tức là chơn lý của mười phương chư Phật nhất trí với nhau rồi. Nói Phật phóng ra ánh sáng thất bảo, có nghĩa rằng: Trí tuệ giác của Phật là trí tuệ tuyệt trần vô thượng, chẳng còn thứ trí tuệ nào hơn. Tuy nhiên, Bồ Tát, Thanh Văn, La Hán và tất cả chúng sanh hằng tắm mình trong ánh sáng trí tuệ ấy. Trí tuệ của chúng sanh chưa chiếu sáng, ví như bóng đèn khói đóng quá nhiều. Ngày nào lau sạch khói đen thì cùng những ánh đèn rực rỡ xen lộn lẫn nhau lung linh màu sắc.
Vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh, chúng sanh bị dày vò, đau khổ, ở trên mặt đất này. Thường, lạc, ngã, tịnh của Niết bàn Phật có, cũng ở trên mặt đất này. Với tâm hồn thanh tịnh thể nhập bản giác tịnh minh thì nhìn đâu cũng là hoa, nghe đâu cũng là nhạc.
Phật thì biết quá rõ Căn nào ưu việt đối với chúng sanh cõi Ta bà rồi. Nhưng Phật bảo Bồ Tát Văn Thù so sánh để rồi “lựa”, cốt cho hợp tinh thần dân chủ và khách quan. Đức Phật hy sinh một cuộc đời vương giả, đấu tranh giai cấp để xóa bỏ áp bức bất công cho xã hội mà còn độc tài phi dân chủ thì phí đi cái lý tưởng “vị nhân sinh” cao đẹp thuở ban đầu.
Qua lời kệ mở đầu của Bồ Tát Văn Thù, ta có thể nhận thấy: Tất cả chúng sanh vốn có tánh giác minh trong sáng nhiệm mầu. Trong tánh giác minh không có tướng “Sở”, tướng “Năng”, không có ai là chủ thể, gì là đối tượng. Hữu tình, vô tình cùng một bản thể chơn như nhiệm mầu trong sáng ấy. Hư không sanh trong giác tánh như chiếc bong bóng nổi giữa đại dương. Hư không chỉ là một hiện tượng đối đãi có không sanh diệt (… tứ sở hiển thị cố…) tam hữu sanh trong hư không càng nói rõ cái vai trò ảo hóa. Thành đô Niết bàn là đích đến phương tiện di chuyển có chậm mau. Máy bay, tàu thủy, ô tô hay đi bộ còn
tùy người sử dụng.
SO SÁNH SỰ ƯU KHUYẾT CỦA SÁU TRẦN, NĂM CĂN, SÁU THỨC VÀ BẢY ĐẠI
1. Nhược điểm của sáu trần
Sắc bị vọng tưởng tác động vào thanh trần làm mất đi cái hồn nhiên như thị khách quan
của sự vật, khó mà tu chứng viên thông.
Thanh âm kết hợp bởi ngữ ngôn, biểu hiện cụ thể của âm thanh là danh ngôn và cú nghĩa. Tác dụng của âm thanh còn phiến diện khó mà tu chứng viên thông.
Hương có hợp mới thành tác dụng; nếu để ly ra, dù hương có cũng như không. Hương trần không tương tục hiện hữu, khó mà tu chứng viên thông.
Vị không phải đương nhiên tự có, cần phải nếm mới biết có vị. Đối với vị giác cũng không liên tục, nên khó mà tu chứng viên thông.
Xúc có vật chạm mới biết, nếu không biết xúc không thành. Xúc trong lúc hợp, chẳng xúc được lúc ly, khó mà tu chứng viên thông.
Pháp còn gọi là nội trần. Trần là đối tượng “Sở tri”. Năng sở khổ là một khó mà tu chứng
viên thông.
2. Nhược điểm của năm căn
Tánh thấy vốn rỗng rang bao quát nhưng chỉ thấy được phía trước chẳng thấy được phía
sau; bốn hướng tám phương mất đi một nửa, khó mà tu chứng viên thông.
Mũi thở ra thở vào, chặng giữa không có thở; không dung thông, còn cách trở, khó mà tu chứng viên thông.
Lưỡi không vị, tánh nếm không thành. Vị không phải lúc nào cũng sẵn có nên khó mà tu chứng viên thông.
Thân biết xúc, nhưng phải có đối tượng. Năng sở xúc không thường liên tục thì khó mà tu chứng viên thông.
Ý căn thường xen với vọng tưởng. Loạn tưởng dừng thì chẳng thấy biết gì. Tưởng niệm không dễ gì dứt bỏ thì khó mà tu chứng viên thông.
3. Nhược điểm của sáu thức
Cái thấy của mắt phải có căn trần. Cạn xét tột cùng nó không tự thể; không tự thể thì
không có gì nhất định nên khó ma tu chứng viên thông.
Sử dụng cái nghe, nghe suốt mười phương hàng sơ tâm không dễ dàng thực hiện khó mà tu chứng viên thông.
Quán điểm trắng ở tỷ căn đó chỉ là quyền phương tiện, nhằm thu nhiếp để trụ tâm. Trụ
mà trở thành “sở trụ” thì khó mà tu chứng viên thông.
Thuyết pháp vận dụng âm thanh văn tự chỉ khai ngộ cho những ai Phật chủng đã trồng sâu. Danh cú, văn tự không phải là vô lậu thì khó mà tu chứng viên thông.
Giữ giới chỉ câu thúc cái thân, ngoài cái thân lấy gì câu thúc ? Giới và thân vốn không cùng khắp thì khó mà tu chứng viên thông.
Thần thông do tập nhân từ trước, không dính dáng với ý thức phân biệt pháp trần. Niệm lự, không rời sự vật thì khó mà tu chứng viên thông.
4. Nhược điểm của bảy đại
Đất, tánh của nó là ngăn ngại, nếu quán cái tánh của địa đại thì không thể thông suốt. Vả
lại pháp hữu vi không là giác tánh thì khó mà tu chứng viên thông.
Nước do quán mới thấy có. Nếu quán thủy đại cần vận dụng nhiều quán trí. Đã là quán thì không phải chơn, chưa đạt đến như như phi giác quán, thì khó mà tu chứng viên thông.
Lửa đem so sánh với nỗi khổ của dâm tâm, nếu quán hỏa đại để trừ lửa dâm ở nội tâm, đó chỉ là người chán cái khổ hoành hành, chưa phải là viễn ly chơn thật. Đó là phương tiện không phải phát xuất bởi tâm ban đầu nên khó mà tu chứng viên thông.
Gió lúc động lúc yên, nếu quán cái tánh của phong đại thì chỉ là pháp đối đãi. Còn đối đãi thì không là tánh giác minh vô thượng, khó mà tu chứng viên thông.
Không thì rỗng suốt chẳng có gì, nếu quán cái tánh của không đại thì đồng như vô tri vô giác. Vô tri vô giác trái với bồ đề thì khó mà tu chứng viên thông.
Thức thì sanh diệt không thường, nếu quán cái tánh của thức đại chỉ là quán sự phân biệt diệt sanh hư vọng, khó mà tu chứng viên thông.
Kiến là tánh thấy, kiến đại biểu hiện qua tưởng niệm. Tất cả các hành đều vô thường, tưởng niệm vốn trong vòng sanh diệt. Đem nhân sanh diệt, cầu được quả chân thường bất diệt, khó mà tu chứng viên thông.
5. Sự ưu việt của nhĩ căn
Tôi nay kính bạchh Thế Tôn: Phật ra đời ở cõi Ta Bà
Trong cõi này giáo môn thích ứng
Hiệu quả tốt ở: nói và nghe Muốn thành tựu được tam ma đề Phải vận dụng tánh nghe mà nhập Lìa khổ được giải thoát
Hay thay Quán Thế Âm Kiếp số như cát sông Hằng Vào cõi nước vi trần Phật độ
Sức tự tại không thể nghĩ lường Vô úy bình đẳng thí chúng sanh Quán Thế Âm là Diệu Âm
Quán Thế Âm tức Phạm Âm
Quán Thế Âm, hải triều âm đó
Cứu thế vững an khang Xuất thế hằng thường trú Tôi kính bạch Như Lai Như lời Quán Âm nói
Ví như ngồi chỗ tĩnh
Mười phương cùng đánh trống Mười hướng thảy đồng nghe Đấy là viên chơn thật
Cách vách nghe âm tưởng
Xa gần có thể nghe Năm căn không sánh được Thông chân thật, nhĩ căn
Tiếng chuông, tánh nghe không diệt
Tiếng có, chẳng phải mới sanh Có không, không quan hệ Thường chơn thật của nhĩ căn Dù có đang say ngủ
Chẳng vì ngủ không nghe Tánh nghe ngoài suy nghĩ Thân ý chẳng so bằng Hiện tại cõi Ta Bà
Thanh luận được biểu dương
Mê muội đối với tánh nghe
Bị thanh trần cuốn theo dòng lưu chuyển Dùng tánh nghe trú trì Phật Pháp Hãy tự mình nghe lấy tánh nghe
Xoay cái nghe thoát khỏi thanh trần Tánh nghe ấy là tánh nghe thường trú Một căn đã xoay về bản tánh
Thì năm căn sẽ được giải thoát theo Sắc thanh… trần như bệnh lòa huyễn hóa Ba cõi dường hoa đốm trong không
Xoay tánh nghe là trừ hết bệnh lòa Trần tưởng diệt, giác tâm hiển hiện Tột thanh tịnh trí quang thông suốt Tịch như mặt trời chiếu tợ thái dương Quay nhìn xem hiện tượng thế gian Như vật sắc chiêm bao chẳng khác
Ma Đăng Già há không là mộng huyễn
Thì còn ai quyến rũ ! Hởi A Nan ? Như các huyễn sư khéo tạo hình người Giỏi trang điểm làm ra trai hay gái
Dù các căn có cử động rung rinh
Do cái máy giật dây điều khiển
Động cơ nghỉ, tứ chi “người” tê liệt Trò múa men đến lúc trở thành không Tư duy kỹ, sáu căn người cũng thế Phát xuất từ một thể tánh tịnh minh Chia ra thành sáu thứ “hợp” “hòa” Một đã tịch thì sáu căn đều thanh tịnh Trần cấu còn thì gọi là học vị
Giác tột cùng thì gọi đó Như Lai Hởi A Nan ! Và đại chúng hiện tiền Hãy chỉ tức nghe thanh trần điên đảo
Xoay tánh nghe, nghe tự tánh của mình Nghe tự tánh là thành Vô Thượng Giác Xin đảnh lễ như lai tàng tánh
Gia bị cho mạt thế chúng sanh
Đủ khả năng làm chủ lấy nhĩ căn
Giàu nghị lực sống với viên thông thường ba chơn thật tánh
SỰ CHUYỂN BIẾN TỐT SAU KHI NGHE VÀ NHẬN THỨC TÍNH ƯU VIỆT CỦA NHĨ CĂN
Ông A Nan và đại chúng được sự hướng dẫn rõ ràng của Bồ Tát Văn Thù, mọi người cảm thấy khinh an sảng khoái, tâm trí sáng bừng, nhận thức rõ: Rằng Bồ Đề Niết Bàn Phật là gia bảo chung của tất cả chúng sanh, mọi người đều có quyền thừa hưởng. Từ lâu mình tự bỏ cha bỏ nhà đi hoang, biến mình thành những kẻ lạc loài cùng khổ, xa quê hương rời nguyên quán, đánh mất gia tài cự phú vô tận của cha ông. Nay đại chúng nhận rõ: Rằng dù họ chưa về nhưng đã biết đường về và tin ở khả năng trở về của họ. Họ xác định rõ cái quyền thừa hưởng của họ đối với sự nghiệp vĩ đại của cha ông mình.
Hàng hữu học vô học nhị thừa, hàng sơ phát tâm Bồ Tát đông như số cát mười sông Hằng, xa lìa trần cấu được pháp luân thanh tịnh. Vô lượng chúng sanh phát tâm cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
TRỰC CHỈ
Chúng ta đã biết 25 vị đại đệ tử Phật đều tu chứng viên thông dựa trên cơ sở trần, căn, thức, đại. Qua nhãn quan của bực đại trí, ở đoạn kinh này Bồ Tát Văn Thù phân tách rõ chỗ ưu khuyết của 25 dữ kiện.
Nhìn bên bản thể, trần, căn, thức, đại vốn là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng. Tự tướng của chúng không có cái nào làm nên tội lỗi và cũng không có món nào là nguyên nhơn của tội lỗi. Tuy nhiên, đứng bên hiện tượng mà nhìn thì mỗi mỗi khác nhau, sự tác động qua lại của căn trần thức không đồng, công dụng biểu hiện có hơn kém từ sự phản vọng quy chân có ưu khuyết là lẽ đương nhiên vậy.
Nói một cách khác, Bồ Tát Văn Thù “phê phán” là đứng bên phương diện “tục đế” để mà tỉ giảo chọn lấy cái tối ưu. Nếu đứng bên “chơn đế” mà nhìn thì: “Một là tất cả, tất cả là một”, không còn có vấn đề hơn kém.
Do đó, vấn đề ưu khuyết của trần, căn, thức, đại vẫn là sự thật có trở ngại trên đường tu chứng viên thông. Tuy nhiên cái có thể trở ngại, không thích hợp với người này lại là dữ kiện thuận lợi cho một căn cơ khác. Mã tiền, thạch tín ai cũng biết là độc dược, nhưng cũng chính chúng là diệu dược cứu tử bệnh nhơn khi sử dụng đúng người, đúng bệnh và đúng liều.
Người học hãy ý thức rằng: Sự “phê phán” của Bồ Tát Văn Thù không phải “phê phán”
để mà “phê phán”. Mà phê phán nhằm để giới thiệu tính ưu việt của nhĩ căn:
“Ngã kim bạch Thế Tôn
Phật xuất Tà Bà giới Thử phương chân giáo thể Thanh tịnh tại âm văn
Dục thủ tam ma đề
Thực tùng văn trung nhập”.
PHẬT KHAI THỊ VỀ BA MÔN VÔ LẬU HỌC VÀ BỐN ĐIỀU CƠ BẢN XUẤT TRẦN
Ba môn vô lậu học
Trước Phật và đại chúng. Ông A Nan sửa áo chỉnh tề, chấp tay thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi nay đã nhận thức rõ pháp môn thành Phật không còn nghi hoặc. Tôi từng nghe Phật dạy: tự mình chưa được thành Phật mà phát tâm cứu độ chúng sanh, đó là chỗ phát tâm của
các bậc Bồ Tát. Tự mình giác ngộ viên mãn rồi giáo hóa khiến cho người khác cũng được giác ngộ, đó là sự ứng thân vị nhân thế của các Như Lai. Tôi tuy chưa giác ngộ hoàn toàn song tôi nguyện độ chúng sanh đời mạt pháp. Chúng sanh cách Phật ngày xa, tà sư ngụy thuyết càng nhiều, nếu muốn cho đệ tử Phật được tam ma đề (chánh quán niệm) thì phải học thế nào để khỏi rơi vào ma sự, không thoái thoát bồ đề tâm ?
Phật bảo: A Nan ! Lời thưa hỏi của ông có lợi lạc cho chúng sanh hậu thế.
A Nan ! Trong giáo pháp của Như Lai các ông hãy siêng năng thu nhiếp tâm mình. Người thu nhiếp làm chủ được tâm gọi là người có giới. Nhân nơi giới mà có được định tâm. Nhân nơi định tâm mà phát sanh trí tuệ. Đó là ba môn học làm cho những người phát tâm tu hành không lọt rớt trong lục thú tam đồ.
TRỰC CHỈ
Giáo, lý, hành, quả, là một quá trình liên tục không thể tách rời trong toàn bộ giáo lý Phật. Từ chương một mở đầu cho đến đây, ông A Nan và đại chúng tiếp thu có kết quả tốt. Toàn chúng nhất trí nói lên cảm nghĩ và nhận thức của mình đối với quả Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng: Rằng đến sớm hay muộn chỉ còn là vấn đề tinh tấn đi nhanh hay giải đải lang thang, bằng lòng làm người “cùng tử”; còn đường đi và đích đến, đại chúng đã nói lên sự quả quyết rằng đã nắm vững lộ trình. Đó là kết quả bước đầu của Đức Phật trong sự nghiệp giáo hóa chúng sanh trên chặng đường giáo lý của thời pháp Thủ Lăng Nghiêm.
Ba môn vô lậu học, bốn điều cơ bản… Đức Phật đang dạy và sẽ dạy cho ông A Nan mở đường cho giai đoạn hành quả cuối cùng để đến thành đô Niết bàn Phật. Giới định tuệ tương quan mật thiết với nhau, ví như bóng đèn, ngọn đèn và ánh sáng của cái đèn dầu. Nhờ bóng mà ngọn đèn đứng yên. Nhờ ngọn đèn đứng yên mà tỏa ra ánh sáng. Nhơn giới sanh định, nhơn định phát tuệ đó là nền tảng để xây dựng lâu đài Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Trong quá trình tu học: “Lý tuy đốn ngộ, sự nải tiệm trừ”. Hiểu thì có thể hiểu nhanh, nhưng hành phải có quá trình tu tập. Ở đoạn kinh này ông A Nan cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành tế độ quần sanh, kiến lập đạo tràng… càng xác định rõ: hành quả không thể không có giáo lý và giáo lý không phải để thỏa mãn cho sự hiểu biết suông !
BỐN ĐIỀU CƠ BẢN XUẤT TRẦN
1. Đoạn tâm dâm dục
A Nan ! Người có thu nhiếp cái tâm thì tâm được thanh tịnh. Phật gọi đó là người có giới.
Giới là phương tiện thù thắng ngăn dứt những hậu quả khổ đau. Gốc rễ của khổ đau, dâm dục là một trong những mầm nhân gây ra khổ quả. Ông và các chúng sanh tu tập tam ma đề là nhằm xa lánh mọi nghiệp nhân bất thiện để mong ra khỏi trần lao. Nhưng nếu các ông không đoạn tâm dâm thì trần lao không sao ra khỏi được. Dù có thiền định trí tuệ rốt cuộc cũng lạc vào con đường của ma. Hạng ưu thành ma vương, hạng giữa thành ma dân, hạng thấp thành ma nữ. Các bọn ma kia cũng có đồ chúng và tự xưng mình thành đạo vô thượng. Sau khi tôi diệt độ có nhiều bọn ma này sôi nổi trong thế gian ra sức ngợi khen
về dâm dục, dụ dỗ người đời sa vào cạm bẫy dâm dục. Họ tự xưng là thiện tri thức mê hoặc nhiều người sa vào hầm ái kiến sẽ mất nẻo bồ đề, dấn thân mãi vào hang sâu ái dục đen tối khổ đau.
A Nan ! Ông phát tâm muốn cứu thế nên dạy cho những người tu tập pháp tam ma đề đoạn hẳn cái tâm đắm nhiễm dâm dục. Đó là lời dạy chân chính, điều cơ bản thứ nhất của các Như Lai Thế Tôn. Nương đó mà tu tập sẽ được Niết bàn vô thượng. Nếu nói ngược
lại lời dạy của Như Lai là lời của bọn ma ba tuần không nên tin mà lầm lạc !
2. Trừ tâm sát sanh
A Nan ! Sát sanh đoạn mạng người là biểu hiện của tâm hung ác. Muốn tu tập tam ma đề, tạo nhân giải thoát giác ngộ mà không trừ bỏ tâm sát sanh thì không thể nào ra khỏi trần lao. Dù có tu tập thiền định trí tuệ mà còn tâm háo sát rốt cuộc lạc vào thần đạo. Bậc thượng thành đại lực quỷ, bậc trung thành phi hành dạ xoa, bậc hạ thành địa hành la sát. Các loài quỷ đó cũng có môn đồ đệ tử và cũng tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau Như Lai diệt độ có nhiều quỷ thần loại này xuất hiện sôi nổi trong thế gian. Họ rao giảng cho môn đồ rằng: Giết hại chúng sanh cũng được đạo bồ đề.
A Nan ! Ông nay phát tâm tế độ chúng sanh, hãy dạy cho những người ham tu tập pháp tam ma đề phải trừ bỏ hung hăng giết hại. Đó là lời dạy chân chính, là điều cơ bản thứ hai của các Như Lai Thế Tôn. Nếu nói ngược lại lời dạy của Như Lai là lời của ma ba tuần, không nên tin mà lầm lạc !
3. Dứt tâm thâu đạo
A Nan ! Tất cả chúng sanh trong thế gian nếu không dứt bỏ tâm trộm cướp thì dòng sanh
tử còn tương tục để trả đền. Những người ham tu tập tam ma đề nhằm ra khỏi trần lao, dứt dòng sanh tử cần phải diệt hẳn tâm tham lam trộm cướp. Nếu tâm trộm cướp còn dù có tu thiền định trí tuệ thì cũng lạc vào tà đạo. Hạng trên thì thành tinh linh, hạng giữa thành yêu mị, hạng dưới thành người tà đạo bị các loài quỷ dựa vào. Các bọn tà đạo kia cũng có môn đồ đệ tử và cũng tự xưng mình thành đạo vô thượng. Sau Như Lai diệt độ, trong hậu thế có nhiều yêu mị, tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian. Chúng gian dối tự xưng mình là thiện tri thức, là người đã được pháp thượng nhân, lừa gạt những kẻ dễ tin đe dọa tinh thần, lôi kéo đi theo con đường tín ngưỡng xằng bậy làm cho một số yếu lòng long lay chánh tín đối với đạo vô thượng. Những người tin theo chúng lần lần tài sản hao mòn, gia đình tan nát, vì những lời rao giảng bịp bợm không có chân lý. Chúng mượn cách phục sức của đạo Phật, hình thức dáng vẻ của sa môn, buôn bán danh nghĩa Như Lai, tạo nhiều nghiệp ác.
4. Bỏ tâm vọng ngữ
A Nan ! Lục thú chúng sanh, giả sử dứt hết được sát sanh, trộm cướp và dâm dục nhưng
nếu mắc phải đại vọng ngữ thì tu tập tam ma đề cũng không thành tựu.
Thế nào là đại vọng ngữ ? Rằng chưa đạt đạo tự khoe mình đạt đạo, chưa chứng quả tự tuyên bố rằng mình chứng quả… Rằng ta đã thành A La Hớn, là Bồ Tát, Phật, Như Lai… Những người đáng thương ấy chỉ vì lợi dưỡng, vì sự lễ bái cúng dường của tín thí đàn việt, họ tự hủy diệt hạt giống Phật, thành nhất xiển đề trong Phật Pháp, sẽ bị chìm đắm mãi trong biển khổ luân hồi không lượng được ngày ra.
Như Lai dạy các hàng Thanh Văn Duyên Giác, Bồ Tát trong mạt thế tương lai có thể hiện thân qua các dạng người: Hoặc sa môn, bạch y cư sĩ, vua, đồng nam, đồng nữ, quả phụ, dâm nữ, thậm chí dạng người trộm cướp để đồng sự với chúng sanh, để khen ngợi Phật thừa, hướng dẫn những người lầm lạc trở về chánh đạo, thành tựu tam ma đề. Nhưng
tuyệt đối không được tự xưng là: A La Hớn, Bồ Tát, Phật Như Lai…
A Nan ! Ông đã phát tâm vì chúng sanh hậu thế, nên dạy cho những người ham tu tập tam ma đề bỏ dứt tâm đại vọng ngữ. Đó là lời dạy chân chính, là điều cơ bản thứ tư của các Như Lai Thế Tôn. Nếu nói ngược lại lời dạy của Như Lai là lời của ma ba tuần, không nên tin mà lầm lạc.
TRỰC CHỈ
“Bốn điều cơ bản xuất trần”, nói cách khác là “bốn trọng giới trong muôn giới luật”. Trong quá trình thuyết giáo độ sinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giáo lý Ngài dạy gồm trong hai nội dung: tri và hành. Nội dung thứ nhất nhằm đào tạo bồi dưỡng cho con người có nhiều kiến giải để nhận thức chân lý của vũ trụ thiên nhiên. Thành tựu nội dung đó không có cách nào khác hơn là cần phải có trí để tri, để mà tư duy nhận thức. Cho
nên Phật vận dụng nhiều ngôn từ, nhiều thí dụ, nhiều phương tiện trong suốt quá trình giáo hóa độ sanh. Những tư tưởng, ngôn từ, phương tiện đó được ghi chép để lại hậu thế, người ta gọi là kinh tàng.
Nội dung thứ hai nhằm hướng dẫn cho người chịu học theo nền giáo lý Phật phải thực hiện những điều đã học hỏi, đã nhận thức về chơn lý, cần cải tạo đời sống cho sáng sủa hơn, an lành hơn, hạnh phúc hơn và đỉnh cao của cuộc sống là giác ngộ và giải thoát. Để hiện thực hóa lý tưởng đó, Đức Phật dạy cho các đệ tử về môn giới luật. Thực hiện giới luật tức là pháp hành. Hành theo quy tắc, hành trong khuôn khổ, hành trong giới luật không cho sai phạm những điều Phật đã chế ra để làm cái hàng rào ngăn cách những hố sâu tội lỗi. Những điều ngăn cấm đó, được ghi chép để lại, hậu thế gọi đó là luật tàng.
Bốn điều cơ bản xuất trần, phát xuất từ nội dung thứ hai, nó thuộc về giới học, là một trong tam vô lậu học.
Giới có giới trọng giới khinh, nói cách khác là có tánh giới và giá giới.
Bốn điều cơ bản này thuộc về tánh giới. Tánh giới là giới trọng. Tánh giới có Phật ra đời hay không có Phật ra đời; Phật chế ra hay không đề cập đến, nếu một người nào trong
xã hội phạm phải những điều đó thì luật pháp của xã hội cũng kết tội và trừng trị.
Phật chế giới dâm là ngăn cấm người xuất gia làm việc dâm dục. Dâm dục và thực dục là hai thứ đam mê làm cho con người đam mê hơn tất cả. Theo Phật học vì đam mê dâm
dục và thực dục cho nên gọi người đó là người ở trong cõi dục. Cõi dục mà chưa ra khỏi thì làm sao hy vọng giải thoát giác ngộ của quả Vô Thượng Bồ Đề. Cho nên điều cơ bản thứ nhất Phật dạy đoạn dâm dục và đoạn cả tâm móng khởi đam mê dâm dục. Có vậy mới có tâm hồn thanh tịnh tu chỉ quán để thành tựu tam ma đề.
Sát sanh đoạn mạng là hành động biểu hiện của con người tham sân cực độ. Phật dạy tu tập tam ma đề mong ra khỏi trần lao phải trừ bỏ tâm tham sát sanh đoạn mạng, đó là chơn lý tất nhiên.
Trộm cướp là hành động của con người mạt hạng vô lương trong xã hội. Tu cốt để tiến lên thánh quả đến giải thoát giác ngộ đến Vô Thượng Bồ Đề Niết Bàn mà còn trộm cướp hay còn tâm trộm cướp thì quả là điều phi lý, ai cũng biết; vì nhân quả tương phản rõ ràng như trắng với đen vậy.
Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu gọi chung là vọng ngữ. Người thế gian phạm phải vọng ngữ luật pháp xã hội quy thành hành động “bội tín” rồi. Bội tín là một cái tội, luật pháp xã hội không dung tha; người đệ tử Phật phạm phải thì còn gì để gọi là tu với hành được nữa !
Đến như đại vọng ngữ lại còn tệ hại hơn nhiều. Ngoài cái tội vọng ngôn bội tín của xã hội, đại vọng ngữ còn mắc thêm cái tội lạm xưng danh nghĩa Bồ Tát… Phật… để dối bịp chúng sanh, bán buôn Bồ Tát, Phật để làm nghề sanh nhai bất chánh.
Nói rút lại dâm, sát, đạo, vọng là tánh giới, là trọng giới cơ bản trong muôn giới luật. Đó là pháp hành, là cụ thể hóa về những nhận thức của tri. Tri hành hợp nhất được biểu hiện qua giáo lý vị tằng hữu thuyết về thiên thủ thiên nhãn của Quán Thế Âm Bồ Tát ở đoạn kinh trước.
(HÁN BỘ HẾT QUYỂN 6)








CHƯƠNG THỨ BẢY
I – PHẬT KHAI THỊ VỀ HIỆU NĂNG CỦA MẬT GIÁO
Phật dạy: A Nan ! Người muốn thể nhập tam ma đề (chánh quán) tu học pháp môn nhiệm mầu, cầu đạo Bồ tát, trước hết cần giữ luật nghi trong như giá, sạch như sương để chặn đứng những hành động bất thiện của thân khẩu ý tam nghiệp. Và cũng từ đó lục căn tự tại đối với lục trần, các ma sự không có cơ hội lung lạc hoành hành.
Nếu người nặng nhiều bất thiện nghiệp, tập khí khó trừ thì nên nhất tâm trì tụng thần chú “Vô thượng Phật đảnh quang minh ma ha tát đát đa bát đát ra”. Đó là tâm chú vô kiến đảnh tướng của Như Lai
là vô vi tâm Phật, từ nơi đảnh Phật hiện ra đức Hóa Như Lai ngồi trên hoa sen báu mà nói.
A Nan ! Ông cùng nàng Ma Đăng Già do nhân duyên nhiều kiếp trước, tập khí ái ân lâu đời còn vương vấn. Song một phen Như Lai tuyên dương thần chú thì nàng Ma Đăng Già dứt bỏ ái tâm thành A La Hớn quả. Vốn là một dâm nữ, căn lành kém ít, thế mà sức thần chú còn giúp cho cô ta chứng quả vô học, còn bọn ông là hàng Thanh văn trong Lăng nghiêm hải hội, có chí cầu tối thượng thừa thì quyết định sẽ thành Phật quả ví như bụi bặm gặp gió cuốn, những gì vẩn đục sẽ tan biến hết nào có khó khăn gì.
A Nan ! Đời sau, nếu có người muốn kiến lập đạo tràng chuyên trì Thủ Lăng Nghiêm tâm chú, phải cần lấy cho được cái phân của con “đại lực bạch ngưu” ở Tuyết sơn, đem về
hòa trộn với các thứ hương chiên đàn, trầm thủy mà tráng lên mặt đất để làm nền. Vì con “đại lực bạch ngưu” nầy chỉ ăn toàn cỏ thơm, non trong sạch ở Tuyết sơn và nó chỉ uống nước trên núi cho nên sạch mịn và không nhơ nhớp như những con trâu bình thường khác. Nếu không tìm được phân “đại lực bạch ngưu” ở núi Tuyết có thể tạm lấy đất ở bình nguyên, nhưng phải đào bỏ lớp đất mặt xuống sâu năm mét, chọn lấy đất vàng thật
sạch đem về hòa trộn với mười thứ bột hương: chiên đàn, trầm thủy, tô hợp, huân lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, cam tùng và kê thiệt tô trên mặt đất làm nền.
Kiến thiết đạo tràng theo hình bát giác, rộng 6 mét lọt lòng. Tám phía vách bên trong mỗi vách treo một tấm gương lớn, đối diện và phản chiếu lẫn nhau. Trên nóc đàn cũng treo tám tấm gương chiếu xuống. Trung tâm đàn xây một trụ cột bát giác cao khoảng 1m,65, đường kính chừng 1m,50, mỗi cạnh cũng treo mỗi tấm gương phản chiếu với tám tấm gương lớn tám phía bên ngoài. Trên đầu trụ cột thiết kế một tòa sen to, làm bằng vàng, đồng, bạc hoặc gỗ sơn thết như hoa sen thật. Giữa đài sen để một cái bát đựng nước mù sương tháng tám và tùy ý cắm các loại hoa hiện có. Chung quanh trang trí 8 tấm gương tròn, trước mỗi tấm gương có hai lư hương cộng có 16 lư hương cả thảy. Các lư hương để đốt trầm thủy, chiên đàn cúng dường Phật và Bồ tát, nhưng đốt mà không cho thấy lửa.
Trong đàn tôn trí hình tượng chư Phật và chư Bồ tát lồng bóng trong các tấm gương trên dưới, tám hướng, bốn phương làm cho hình ảnh chư Phật, Bồ tát ảnh hiện trùng trùng nhiều lớp.
Hành giả ở trong đàn thân tâm thanh tịnh, chí thành lễ bái danh hiệu Phật, Bồ tát trong mười phương, ngày đêm 6 thời đi kinh hành trì Thủ Lăng Nghiêm tâm chú 108 biến mỗi thời. Nhiếp tâm tinh tấn hành trì từ 1 thất, 2 thất, 3 thất cho đến 7 thất hoặc 100 ngày, những người căn tánh nhanh nhẹn có thể ngay nơi đạo tràng được quả Tu đà hoàn và tự biết mình sẽ thành Phật
TRỰC CHỈ
“Kiến lập đạo tràng” điều đó đủ nói lên rằng: pháp môn đó chỉ là một pháp môn “phương tiện”. Hình thức đạo tràng được kiến tạo theo như một cái đàn “bát giác”. Rồi thiết kế đài sen, rồi tôn trí tượng chư Phật, chư Bồ tát, chưng hoa đẹp, đốt hương thơm, cúng bánh ngon, mật ngọt, nào những tấm gương lồng bóng làm cho Phật và Bồ tát xuất hiện trùng trùng… tất cả đều là thứ Đạo Tràng “phương tiện”.
Đạo Tràng “đệ nhất nghĩa”, ta hãy nghe Bồ tát Duy Ma Cật nói: Trực tâm là đạo tràng, không có các điều hư dối.
Phát hạnh là đạo tràng: làm tất cả điều thiện.
Thâm tâm là đạo tràng: chân thành trên con đường đạo. Bồ đề tâm là đạo tràng: nhận thức chơn lý không sai lầm.
Bố thí là đạo tràng: xứng tánh mà làm không mong cầu phước báo. Trì giới là đạo tràng: nguyện lành được đầy đủ.
Nhẫn nhục là đạo tràng: đối với chúng sanh tâm không chướng ngại. Tinh tấn là đạo tràng: không biếng trễ trên con đường Bồ đề.
Thiền định là đạo tràng: tâm nhu thuận và an ổn.
Trí tuệ là đạo tràng: nhận thức rõ thực tướng của các pháp. Từ là đạo tràng: đồng sự với chúng sanh.
Bi là đạo tràng: nhẫn chịu các sự khó nhọc vì chúng sanh.
Hỉ là đạo tràng: ưa thích và vui mừng được sống trong chánh pháp. Xả là đạo tràng: dứt sạch hết tâm thương ghét.
Thần thông là đạo tràng: thành tựu pháp lục thông.
Giải thoát là đạo tràng: chống trái với những tập quán vô minh. Đánh đổ hủ tục lạc hậu. Phương tiện là đạo tràng: hay giáo hóa chúng sanh.
Tứ nhiếp là đạo tràng: không bỏ một chúng sanh nào.
Đa văn là đạo tràng: nghe chánh pháp, hành chánh pháp, và truyền bá chánh pháp…
Như vậy đó Thiện nam tử ! Bồ tát Duy Ma Cật nói với Đồng tử Quảng Nghiêm; nếu Bồ tát theo đúng các pháp ba la mật giáo hóa chúng sanh thì nhất cử nhất động phải biết, đều là từ nơi “đạo tràng” mà ra, ở nơi chỗ Phật mà đến đây.
Trong đạo Phật, các thiền gia kim cổ thường ví cái tâm giác ngộ của con người như con trâu trắng lớn, còn tâm mê muội chưa tí nào giác ngộ ví như con trâu đen. Người tu hành thường xuyên canh giữ cái tâm tạp vọng loạn tưởng như canh giữ con trâu đen chưa thuần nết. Ngày con trâu trở thành toàn trắng, đó là nói lên cái kết quả của quá trình cải tạo chuyển hóa cái tâm đến hồi nhu nhuyến thuần thiện. Hành giả hãy lấy cái tâm thuần thiện nhu nhuyến đó làm nền tảng mà kiến lập đạo tràng.
Hãy luôn luôn soi xét về thân về khẩu về ý của mình qua những tấm gương lòng trong sáng, qua lớp lớp chiếu soi và chợt thấy rằng hình ảnh của chư Phật, chư Bồ tát và hình ảnh của chính mình giao hiệp với nhau trùng trùng trong một bầu pháp giới nhất chân không ranh giới. Cho nên, đừng cầu khẩn thương tình, đừng quỳ lạy van xin với Phật với Bồ tát ở một thế giới xa xăm nào là luống công vô ích.
Trầm thủy, chiên đàn, cam tùng, kê thiệt, linh lăng v.v… dù có thơm tho đến cỡ nào, Như Lai há chẳng biết đó là “vật hữu vi, như mộng, huyễn, bào, ảnh…” hay sao ? Chỉ có giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến mới là thứ hương cung dưỡng Phật và Bồ tát có chân giá trị. Bánh ngon, hoa đẹp chưng dọn lên cúng Phật cũng chỉ là cách nói: “Phổ vị thế giới tất đàn”. Nếu ai có làm theo thì cũng biểu hiện được “một tấm lòng” tôn kính…
Con số 108 là con số tiêu biểu, phiền não nghiệp của chúng sanh mê vốn có. Lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp khả dĩ tạo thành ba bậc nhiễm ô. Bậc một, nó làm cho con người đam mê đến độ không còn lý trí. Bậc hai, nó đáp ứng cho con người sự đắc ý vui lòng. Bậc ba, những thứ làm cho con người sanh ghét, chê cần khử trừ triệt hạ.
Vì vậy, khi sáu căn tác động vào sáu trần có khả năng sanh ra 36 món nhiễm ô. 36 món nhiễm ô nầy xuất hiện trong ba thời: đã, đang và sẽ. Đó là hệ quả của con số 108 được đặt ra. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời trì tụng 108 biến, nhằm nhắc nhở với mọi người: Lòng hãy dặn lòng rằng: trì chú cốt yếu để hóa giải những phiền não chướng có thể xảy đến, thông qua 6 căn, 6 trần và 6 thức của chính ta đó. Vì thế, không nhất thiết khư khư với con số 108 biến rồi thôi. Mà trì càng nhiều, càng liên tục, càng chiếm lĩnh thì giờ rảnh rỗi của tạp tưởng mông lung, càng tỏ rõ sức tinh tấn kiên trì thì hiệu lực “tam mật tương ưng” càng nhanh chóng.
Đó là sự thành công có hiệu quả, là đỉnh cao của pháp môn Mật Giáo được đánh giá trên “Tam Mật Tương Ưng” vậy.
II – PHẬT TUYÊN NÓI THỦ LĂNG NGHIÊM TÂM CHÚ
Bấy giờ đức Thế Tôn từ nơi nhục kế phóng ra hào quang bách hảo, hào quang nầy hiện ra hoa sen báu ngàn cánh. Có đức Hóa thân Như Lai ngồi trên hoa sen. Trên đỉnh đầu Như Lai phóng ra mười đạo hào quang bách hảo. Trong mỗi mỗi hào quang đều hiện ra những vị thần Kim Cang mật tích, số lượng bằng mười số cát sông Hằng. Ông cầm chày, vị vác núi đầy khắp cõi hư không. Đại chúng ngước xem vừa kính yêu, vừa lo sợ, cầu Phật thương xót chở che và đồng nhất tâm lóng nghe đức Phóng quang Như Lai nơi vô kiến đảnh tướng của Phật tuyên nói thần chú:
1. Nam mô tát đát tha tô gia đa gia a la ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa.
2. Tát đát tha Phật đà cu chi sắt ni sam.
3. Nam mô tát bà bột đà bột địa tát đa bệ tệ.
4. Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đà câu chi nẩm.
5. Ta xa ra bà ca tăng già nẩm.
6. Nam mô lô kê A La Hớn đa nẩm.
7. Nam mô tô lô đa ba na nẩm.
8. Nam mô ta yết rị đà dà di nẩm.
9. Nam mô lô kê tam miệu dà đa nẩm.
10. Tam miệu dà ba ra đễ ba da na nẩm.
11. Nam mô đề bà ly sắt noãn.
12. Nam mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt noãn.
13. Xá ba nô yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.
14. Nam mô bạt ra ha ma nê.
15. Nam mô nhân đà ra đa.
16. Nam mô bà dà bà đế.
17. Lô đà ra da.
18. Ô ma hát đế.
19. Ta hê dạ da.
20. Nam mô bà già bà đế.
21. Na ra dã noa gia.
22. Bàn giá ma ha tam mộ đà ra.
23. Nam mô tất yết rị đa gia.
24. Nam mô bà già bà đế.
25. Ma ha ca ra gia.
26. Địa rị bát lạt na già ra.
27. Tỳ đà ba noa ca ra gia.
28. A địa mục đế.
29. Thi má xa na nê bà tất nê.
30. Ma ha đát rị già noa.
31. Nam mô tất yết rị da gia.
32. Nam mô bà già bà đế.
33. Đa tha già đa câu ra gia.
34. Nam mô bát đầu ma câu na gia.
35. Nam mô bạt xà ra câu ra gia.
36. Nam mô ni câu ra gia.
37. Nam mô già xà câu ra gia.
38. Nam mô bà già bà đế.
39. Đế rị trà du ra tây na.
40. Ba ra ha ra noa ra xà gia…
………………………………
419. Đát điệt tha.
420. Án.
421. A na lệ.
422. Tỳ xá đề.
423. Bệ ra bạt xa ra đà rị.
424. Bàn đà bàn đà nể.
425. Bạt xà ra báng ni phấn.
426. Hổ hồng độ rô úng phấn.
427. Ta ba ha.
A Nan ! Đức Phật dạy tiếp, đó là những câu tâm chú bí mật, nhiệm mầu “tát đát đa bát đát ra” (dịch là Đại bạch tán cái) của Hóa thân từ hào quang trên đảnh của Như Lai. Tâm chú đó sản sanh tất cả chư Phật trong mười phương. Mười phương Như Lai Nhân tâm chú nầy mà thành vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Mười phương Như Lai Nắm tâm chú nầy mà nghiêm trị các ma quân, chế ngự bọn ngoại đạo. Mười phương Như Lai Cởi tâm chú này mà ngồi được tòa sen báu, có mặt trong các cõi nhiều như số vi trần. Mười phương Như Lai Ngậm tâm chú nầy mà chuyển bánh xe pháp ở các cõi nước trong mười phương. Mười phương Như Lai Giữ tâm chú nầy mà trong lúc tu nhân được chư Phật thọ ký. Mười phương Như Lai Nương tâm chú nầy mà hóa giải tất cả khổ trong bát nạn, tam đồ. Mười phương Như Lai Theo tâm chú nầy mà phụng sự thiện tri thức trong mười phương, cúng dường như ý, được suy tôn là bậc pháp vương. Mười phương Như Lai Hành tâm chú nầy mà thu phục được nhân tâm, khiến cho hàng Tiểu thừa nghe tạng bí mật không sanh tâm kinh sợ. Mười phương Như Lai Tụng tâm chú nầy mà được thành bậc vô thượng Bồ đề và vô thượng Niết bàn. Mười phương Như Lai Truyền tâm chú nầy mà sau khi diệt độ, phó chúc Phật pháp cữu trụ và truyền
trì giới luật được thanh tịnh. A Nan ! Sự lợi ích của Thủ Lăng Nghiêm tâm chú, nếu Như Lai nói từ sáng đến tối liên tục không ngừng, và ngôn từ không trùng điệp, nói mãi nói hoài trải qua số kiếp như cát sông Hằng cũng không sao hết được. Vì vậy chú nầy còn được gọi là Như Lai Đảnh.
TRỰC CHỈ
Hào quang được tượng trưng cho trí tuệ, cho nên đã là Phật thì Phật nào cũng có hào quang và kinh điển rải rác đề cập việc Phật sử dụng hào quang. Vì không có hào quang đồng nghĩa với không trí tuệ. Mà không có trí tuệ đồng nghĩa với chưa được Bồ đề, thì không là Phật được.
Lúc ông A Nan sắp sa ngã trước sức cám dỗ của Ma Đăng Già nữ là lúc vô minh phát triển thế lực hoành hành. Nhằm soi thủng màn đen vô minh, đức Phật hiện hào quang để nói thần chú. Sự kiện đó có ý ngầm bảo cho đại chúng biết: “Gặp lúc như vậy cần sử dụng đến trí tuệ”. Hãy đem trí tuệ mà công phá vô minh. Hãy phóng hào quang để xé tan màn u tối.
Thật tánh của vô minh vốn là Phật tánh, cho nên vô minh chỉ là một Huyễn Pháp. Vì vậy, cho nên Như Lai chỉ cần hiện ra vị Huyễn Phật nói Huyễn Chú là đã diệt được Vô Minh Như Huyễn của ông A Nan rồi ! Thần Kim Cang mật tích đông như số cát của mười sông Hằng bảo hộ thần chú Thủ Lăng Nghiêm. Đó là vận dụng văn tự ngữ ngôn để làm chỗ nương tựa tâm hồn, để an lòng những ai muốn phát tâm tu hành đi theo con đường Mật Giáo. Chứ sự thật, một chân lý hiển nhiên, người trì chú tu tập Thủ Lăng Nghiêm định thì sẽ tự tại an nhiên bất động tựa hồ như có vô số Kim Cang thần bảo hộ đầy khắp hư không. Vì các tai họa không có lý do bộc khởi, mọi đau khổ không còn dữ kiện phát sanh.
Các bậc tiền bối như ngài Đơn Hà, ngài Trường Thủy v.v… cho rằng Thủ Lăng Nghiêm chú chỉ có tám câu, kể từ câu 420 về sau:
420 – Án
421 – A na lệ
422 – Tỳ xá đề
423 – Bệ ra bạt xà ra đà rị
424 – Bàn đà bàn đà nể
425 – Bạt xà ra báng ni phấn
426 – Hổ hồng độ rô hung phấn
427 – Ta bà ha
Còn lại 419 câu về trước, được xem là mật ngữ của chư Phật, mỗi chữ mỗi câu hàm nhiều ý nghĩa, cho nên xưa nay vấn đề nguyên âm, các dịch giả không một người nào dịch. Có lẽ đó cũng là cách áp dụng nguyên tắc “ngũ chủng bất phiên”, của ngài Huyền Trang đề xuất:
1/- Trang trọng bất phiên
2/- Đa hàm bất phiên
3/- Bí mật bất phiên
4/- Thuận cổ bất phiên
5/- Thử phương vô bất phiên
Trì Thủ Lăng Nghiêm chú, điều quan trọng là còn phải sống trong môi trường Thủ Lăng Nghiêm định thì hiệu quả giải thoát giác ngộ mới phát huy cao. Nếu xa rời Thủ Lăng Nghiêm định, chỉ chuyên trì tụng bằng âm thanh, văn tự, thêm vào đó vọng tâm tham muốn “Linh thiên hiệu nghiệm…” thì có thể phản tác dụng gây điều nguy hại không lường trước được. Hành giả nên lưu ý quan tâm !
Sự thành tựu hiệu quả lớn lao của Thủ Lăng Nghiêm chú, các đức Như Lai không phải chỉ có Tụng. Nói cách khác là đối với Thủ Lăng Nghiêm ngoài cách Tụng, các đức Như Lai còn:
Nhân. Nắm. Cởi. Ngậm. Giữ. Nương. Theo. Hành. Truyền trong mọi cơ hội mọi môi trường qua cuộc sống của mình. Do vậy, mà Phật nói:
“Các đức Như Lai được vô thượng Bồ đề và Đại Niết bàn, du hí thần thông tự tại ở khắp mười phương”.
III – SỰ LƠỊ ÍCH CỦA THỦ LĂNG NGHIÊM CHÚ VỚI MỌI GIAI TẦNG XÃ HỘI
Phật dạy: A Nan ! Nay tôi vì ông mà tuyên nói thần chú Thủ Lăng Nghiêm và cũng nhằm giúp cho thế nhân ở đời sau có thể tu học để được nhiều lợi ích.
A Nan ! Chú Thủ Lăng Nghiêm nếu ai chuyên tâm trì tụng đúng như pháp mà tu hành thì kết quả thành tựu Thủ Lăng Nghiêm tam muội, bấy giờ vào lửa, lửa không đốt cháy, vào nước, nước không nhận chìm được, các thứ độc hại không hại được. Quỉ thần, tịnh mị, ác ma không khuấy phá được. Những người thiện nam, thiện nữ hoặc biên chép hoặc đọc tụng, hoặc truyền bá Thủ Lăng Nghiêm chú sẽ được phước đức vô biên, hiện kiếp không sa đọa vào cảnh nghèo nàn hạ tiện. Những người đó dù không có cơ hội làm phước, nhưng mười phương Như Lai có bao nhiêu phước đều cho họ hết và người đó được cùng chư Phật ở chung. Nếu là người nữ muốn cầu có con trai sẽ sanh con trai phước đức trí tuệ, muốn cầu con gái thì được con gái tướng hảo đoan chánh mọi người kính quí, cho đến người cầu trường thọ, cầu phước báo, cầu sắc lực mạnh khỏe, cầu được bình an…
đều được toại nguyện.
Ở một quốc độ chẳng may có nhiều khổ nạn: Dịch tể, mất mùa, giặc giã, đao binh, hạn hán, thủy tai mà vua quan cùng dân chúng trong nước một lòng tin kính, biên chép, trì tụng, lễ bái, tôn trọng, đeo mang, truyền bá tu hành, thì thiên long bát bộ, các thiện thần hoan hỉ, khiến mọi khổ nạn vượt qua, mưa thuận gió hòa, chốn chốn thái bình, người người no ấm.
TRỰC CHỈ
Nhằm khuyến khích cho mọi căn cơ cho nhiều hạng người trong xã hội phát tâm tu học theo kinh Thủ Lăng Nghiêm mà đức Phật vận dụng lối thuyết pháp: “Thế giới tất đàn”, cho nên đọc đoạn kinh văn trên, nghe qua ai cũng thấy pháp môn tu tập nầy có đáp ứng nguyện vọng của mình đang mong muốn. Và sự thật, nếu ai đó nghe qua, rồi vì cái lợi trước mắt dựa trên ngữ ngôn văn tự ấy mà tu thì vẫn có được lợi, nhưng cái lợi đó hẳn không phải là cái lợi cứu cánh lâu dài.
Nếu chỉ sao chép, tôn thờ, ấn tống truyền bá, đọc tụng và đeo mang, mà cầu gì được nấy, diệt họa trừ tai cho cá nhân, cho xã hội một cách quá dễ dàng thì thử hỏi tám vạn bốn ngàn pháp môn khác, đức Phật bỏ cả cuộc đời khổ công dạy bảo để làm gì ? Nền giáo lý Nhân quả trong nếp sống tu hành của người đệ tử Phật, không còn giá trị nữa hay sao ?
Người học Phật “Lãm ngũ thời bát giáo để làm kỷ cương kinh luật luận… chiếu thất đại tứ khoa biết thế nào là khai hợp văn tư tu” sẽ được có cái lợi lớn trong sự nhận thức kinh điển như giáo lý của đoạn kinh nầy.
IV – HỎI VỀ CẤP BẬC VÀ ĐỊA VỊ TRÊN ĐƯỜNG TU CHỨNG
Bạch Thế Tôn, ông A Nan thưa, từ lâu chúng tôi ngu độn, chỉ ham học rộng nghe nhiều mà chưa có ý chí mong cầu giải thoát phiền não trần lao vượt ra hữu lậu. Nhờ lòng từ bi rộng lớn của Phật khai thông giác đạo chỉ nẻo Niết bàn khiến cho chúng tôi được lợi ích lớn lao.
Nay chúng tôi cầu xin Phật chỉ dạy cho chúng tôi về cấp bậc và địa vị trên đường tu chứng:
Càn Tuệ địa là hạng người thế nào ?
Trong 44 tâm, đạo hạnh phải như thế nào thì được gọi là những Bồ tát đăng địa ?
Đẳng giác Bồ tát là người thế nào ?
V – ĐỨC PHẬT CHỈ RÕ HAI NGUYÊN NHÂN ĐIÊN ĐẢO VỌNG CHẤP VỀ THẾ GIỚI VÀ CHÚNG SANH, TRƯỚC KHI GIẢI ĐÁP VẤN ĐỀ ĐỊA VỊ TRÊN ĐƯỜNG TU CHỨNG
Đức Phật dạy: A Nan ! Ông nên biết: Diệu Tánh Viên Minh rời các danh tướng, xưa nay không có thế giới và chúng sanh. Nhân vọng mà thấy có sanh; nhân sanh mà thấy có diệt; sanh diệt gọi là vọng; diệt vọng gọi là chân. Đó là hai cách chuyển y thành tựu vô thượng Bồ đề và Đại Niết bàn của chư Phật.
A Nan ! Nay ông muốn tu tam ma đề để thẳng đến Niết bàn Phật, trước hết ông phải nhận biết cho rõ hai nguyên nhân điên đảo về thế giới và chúng sanh. Chừng nào hết điên đảo thì ngay nơi đó là tam ma đề vậy.
Thế nào là điên đảo về chúng sanh ?
Nầy A Nan ! Tâm chúng sanh bản tánh vốn Minh. Tánh minh ấy viên mãn khắp cùng. Nhân tánh minh ấy mà vọng, nhận cho là có tánh. Do đó mà vọng kiến sanh ra. Đã có vọng kiến thì những pháp vốn không, trở thành pháp có. Những pháp được cho là có, truy tìm nguyên nhân của nó vốn phi nhân. Vì thế, tìm xét nguyên nhân thì hoàn toàn không
có gốc nguồn. Tánh vọng kiến năng trụ, tướng cảnh giới sở trụ cả hai đều là pháp vô trụ. Dựa trên pháp vốn vô trụ ấy mà kiến lập thế giới và chúng sanh.
Vì mê không nhận được tánh viên minh vốn sẵn có nên sanh ra hư vọng. Tánh hư vọng không có tự thể, không chỗ gá nương. Do vậy, cho nên móng ý trở về chân làm cho chân hóa ra vọng. Không vọng tức là chân, đừng móng ý “trở về” hay nguyện ước mong tìm cái chân ở nơi đâu khác.
Vì không nhận thức chân lý cho nên thế giới và chúng sanh vốn không phải sanh cho là thật có sanh, không phải thật trụ cho là trụ, không phải tâm cho là tâm, không phải pháp cho là pháp. Do vậy, vọng kiến ngày một sâu rộng thêm theo quá trình huân sanh huân trưởng, sanh diệt diệt sanh biểu hiện qua hành động thân khẩu ý của cuộc sống con người, gọi đó là nghiệp báo. Hễ đồng nghiệp thì cảm hợp nhau. Dị nghiệp thì chống trái nhau, thương thì sanh nhau, ghét thì diệt nhau. Do nhận thức sai lầm như thế, nên gọi đó là: Điên Đảo về Chúng Sanh.
Thế nào là điên đảo về thế giới ?
Nầy A Nan ! Đã cho là có pháp sở hữu, có vật chất thì khái niệm kích thước, diện tích, cự ly, qui mô… giả dối sanh ra. Vì vậy khái niệm “không gian” được thành lập. Do phi nhân làm nhân cho nên không thật có sở trụ và năng trụ. Vì không có năng trụ, sở trụ nên mọi hiện tượng luôn luôn trong quá trình vận động trong tiến trình chuyển biến, không có sự vật nào đứng yên nguyên trạng của mình. Vì thế mà khái niệm “Thời gian” được thành lập. Bốn phương ba đời hòa hợp tác động lẫn nhau mà biến hóa mà hình thành 12 loại chúng sanh trong thế giới. Vì vậy cho nên trong thế giới nhân động có thanh, nhân thanh có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị có pháp, sanh
khởi hỗ tương. Do sáu thứ trần tướng ấy làm điều kiện mà sanh khởi sáu thứ vọng tưởng rối ren kết thành nghiệp chủng của các loài: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu sắc phi vô sắc, phi hữu tưởng phi vô tưởng, 12 loại chúng sanh như vậy.
A Nan ! Do vì trong thế giới có tánh “hư vọng” phổ biến và thiên nặng về “động”, hòa hợp với “khí” thành 84.000 loạn tưởng, thứ bay thứ lặn, cho nên có thứ tế bào chủng thuộc loại mầm trứng, sanh ra các loại: cá, chim, rùa, rắn… (noãn sanh).
Do vì trong thế giới có tánh “tập nhiễm” phổ biến và thiên nặng về “Dục”, hòa hợp với chất “nhuận” thành 84.000 loạn tưởng thuộc giống đứng thẳng, giống xương sống nằm ngang, cho nên có thứ tế bào chủng bọc nước phôi thai để rồi sanh ra các loại: Người, súc… (thai sanh).
Do vì trong thế giới có tánh “Chấp mắc” phổ biến và thiên nặng về “cõi” (ngũ thú) hòa hợp với “khí ấm” thành 84.000 loạn tưởng ngữa nghiêng nên có thứ tế bào chủng, chất thịt ướt, sanh ra các loài: nhung nhúc cựa quậy… (thấp sanh).
Do vì trong thế giới có tánh “biến dịch” phổ biến và thiên nặng về “giả” hòa hợp với “xúc” thành 84.000 loạn tưởng thay cũ đổi mới, cho nên có thứ tế bào chủng chất thịt cứng, sanh ra các loài bò, bay, lột vỏ, thoát xác… (hóa sanh).
Do vì trong thế giới có tánh “lưu ngại” phổ biến và thiên nặng về “chướng” hòa hợp với “dính mắc” thành 84.000 loạn tưởng vừa “tinh vừa diệu” cho nên có thứ tế bào chủng sắc tướng sanh ra các loại thần: Hưu trung, cửu trung… (hưu trung là thiện thần, cửu trung thuộc ác thần) (hữu sắc).
Do vì trong thế giới có tánh “tiêu tán” phổ biến và thiên nặng về “hoặc” (lầm lẫn) hòa hớp với “Ám” (ngu độn) thành 84.000 loạn tưởng thầm ẩn, cho nên có thứ tế bào chủng vô sắc, sanh ra loại thần kỳ quỉ mỵ không tán tiêu trầm… (vô sắc).
Do vì trong thế giới có tánh “võng tượng” phổ biến và thiên nặng về “ảnh tượng” hòa hợp với “ký ức” thành 84.000 loạn tưởng tiềm tàng cho nên có thứ tế bào chủng hữu tưởng, sanh ra các loại thần, quỉ, linh ứng (hữu tưởng).
Do vì trong thế giới có tánh “ngu độn” phổ biến và thiên nặng về “si” hòa hợp với “ngoan cố” thành 84.000 loạn tưởng khô khan cho nên có thứ tế bào chủng vô tưởng hóa thành các loại: đất, đá, cây, kim loại… (vô tưởng).
Do vì trong thế giới có tánh “bãi bui” phổ biến, thiên nặng về “dối trá” hòa hợp với “nhiễm” thành 84.000 loạn tưởng nhân y cho nên có thứ tế bào chủng không phải sắc mà sắc sanh ra loài thủy mẫu dùng tôm làm mắt… (phi hữu sắc).
Do vì trong thế giới có tánh “hấp dẫn” phổ biến thiên nặng về “tánh” (dị tánh tương hấp, đồng tánh tương cự) hòa hợp với “chú” (chú thuật) thành 84.000 loạn tưởng hú gọi cho nên có thứ tế bào chủng phi vô sắc mà vô sắc sanh ra loại trù ếm bùa chú… (phi vô sắc).
Do vì trong thế giới có tánh “hợp vọng” phổ biến thiên nặng về “lừa đảo” hòa hợp với “dị” (loài khác) thành 84.000 loạn tưởng tráo trở cho nên có thứ tế bào chủng phi hữu tưởng mà có tưởng sanh ra loài bồ lô… (loài sanh rồi do một trợ duyên khác để bảo tồn
và trưởng thành. Chẳng hạn như loài vịt xiêm đẻ ra không ấp, nhờ giống khác ấp trứng để nở con và nuôi dưỡng, giống rùa đẻ trứng lấp đất bỏ đi… Các bản dịch xưa nói “bồ lô” là con tò vò, khi con còn nhỏ chưa bay đi kiếm ăn được, chớ không phải những con sâu đó hóa ra tò vò như người xưa lầm hiểu).
Do vì trong thế giới có tánh “oán hại” phổ biến và thiên nặng về “sát” hòa hợp với “quái” (quái dị) thành 84.000 loạn tưởng ăn thịt cha mẹ cho nên có thứ tế bào chủng phi vô tưởng mà vô tưởng sanh ra loại chim thổ kiêu ấp đất cục, chim phá kính ấp trái độc làm con… con lớn lên ăn thịt cha mẹ…
A Nan ! Đó gọi là 12 loại chúng sanh xoay chuyển trôi lăn trong ba cõi. Sự luân hồi lên xuống như vậy chẳng khác nào dụi con mắt thấy hoa đốm nhiều thứ phát sanh ra. Chân tâm của con người vốn mầu nhiệm trong sáng tròn đầy, một khi vô minh điên đảo thì đầy dẫy những vọng tưởng rối ren, giả dối sanh ra, cũng như vậy.
Nay ông muốn tu chứng tam ma đề chư Phật, Như Lai sẽ chỉ dạy cho ông về “ba món tiệm thứ”, ông hãy y đó mà tu hành để diệt trừ cho hết mọi nguyên nhân điên đảo. Ví như cái bình pha lê muốn đựng cam lồ thì cần phải rửa sạch hết chất bẩn, chất độc vậy.
TRỰC CHỈ
Vấn đề “thế giới” và “chúng sanh” nhìn bên mặt chân thì tất cả là một thể nhiệm mầu, trong sáng, bình đẳng như như. Nói xa rời tất cả danh tướng, xưa nay không có tên gọi.
Đề cập đến “thế giới” và “chúng sanh” là do con người đã đem cái nhìn chủ quan của mình đề nhìn hiện tượng vạn pháp ở mặt “sanh diệt” của chúng.
Do vì vọng kiến cho nên thấy hiện tượng có thật sanh. Đã thấy có thật sanh thì cũng chấp nhận rằng có thật diệt. Thực chất của hiện tượng vạn pháp, sanh không có thật sanh và diệt cũng không thật diệt. Cho nên sanh diệt gọi là vọng. Nhưng vọng không thật vọng, vì vọng không có thật tánh. Cho nên mọi chúng sanh đều có khả năng diệt vọng. Diệt hết vọng thì gọi đó là chơn. Vì vậy: chơn không ngoài vọng. Biết vọng không theo vọng ngay nơi đó đã chơn rồi. Người học đạo không cầu chơn ở cảnh giới xa xăm nào khác.
Hai pháp chuyển y: chuyển phiền não thành Bồ đề, chuyển sanh tử thành Niết bàn, đức Thế tôn ta thực hiện thành công ngay trên cõi đời nầy mà không tốn một tí hơi khẩn nguyện, không phí sức dù một lạy để quì lạy van xin.
Đến như “tam ma đề” cũng chẳng phải là những gì siêu thực, viễn vông. Chừng nào
“điên đảo” không sanh thì ngay nơi đó là “tam ma đề” rồi vậy !
“Thế” là thời gian. “Giới” là không gian. Thấy thế giới là do vọng kiến phân biệt của con người nương gá vào các pháp hiện tượng “duyên sanh như huyễn” ấy. Đã đánh giá hiện tượng vạn pháp là thật thì cũng chấp nhận kích thước, ngắn dài, diện tích rộng hẹp, qui mô cao thấp… của vạn pháp là thật. Do vậy, mà khái niệm “không gian” được lập ra. Đã nhận thức rằng hiện tượng vạn pháp là thật thì cũng nhận thức rằng chúng luôn luôn vận động theo quá trình: sanh, trụ, dị, diệt, sanh, lão, bịnh, tử, thành, trụ, hoại, không. Do vậy, khái niệm “thời gian” được con người xác lập.
Thời gian có 3. Không gian có 4. Ba tác động vào bốn: 3 x 4 = 12. Bốn tác động vào ba:
4 x 3 = 12. Do vậy, Như Lai nói: Nhận thức “thế giới” bên mặt “sanh diệt” của hiện tượng vạn pháp chỉ là cái nhận thức Điên Đảo về thế giới mà thôi !
Mười hai loại chúng sanh trong thế giới cũng chỉ là những hiện tượng “Duyên sanh như
huyễn”. Duyên thì trùng trùng vô tận. Thế giới thì vô thỉ vô chung.
Hoa đốm trùng điệp trong hư không, đối với người bệnh nhặm mắt họ vẫn thấy là có thật. Hoa đốm sẽ không là gì hết, chừng nào con mắt ai đó trong sáng không còn bệnh nhặm lòa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Trân trọng cám ơn!