-->

2011-08-19

Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Chương 1-2-3-4



LỜI NÓI ĐẦU
Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bộ kinh thuộc hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa. Từ xưa nhẫn nay, khắp chốn tòng lâm, những hàng long tượng trong giới truy lưu đều xem Thủ Lăng Nghiêm kinh là một trong những bộ kinh then chốt trong nền giáo lý Phật. Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật Đế và Di Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
Mãi đến đời nhà Minh (1366-1661) tư tưởng Thủ Lăng Nghiêm, được các
giới truy lưu, những hàng long tượng để tâm nghiên cứu rầm rộ một thì. Các tiền bối ra sức phát huy diệu lý của kinh. Mỗi Ngài chú giải, sở thích, sáng tác theo sở kiến, sở ngộ của mình. Có những vị phát huy cái thâm cái diệu tàng ẩn trong kinh làm cho sáng tỏ rõ ràng đem lại cho Phật Tử hậu lai nhiều lợi lạc. Cũng có những vị sớ giải mơ màng, gieo vào lòng người con Phật những tư tưởng huyễn hoặc hoang đường, vô phương lý giải. Do vậy, những bậc thạc đức chân tu cùng thời, Ngài Thích Truyền Đăng phải viết ra hai quyển, nhan đề: Lăng Nghiêm viên thông sớ tiền mao. Nội dung để báo động trong giới truy lưu về sự sai lầm của những nhà sớ giải vô tình đã gieo vào lòng nguời con Phật tư tưởng mê tín dị đoan, con đường giải thoát giác ngộ mơ hồ không hy vọng có ngày hiện thực. Trong lời tựa của bộ “Thủ Lăng Nghiêm chính mạch” thì Ngài Chơn Giám cũng than phiền tương tợ !…
Ở Việt Nam ta, từ những thập niên 30 về sau, phong trào chấn hưng Phật giáo, các trường cao cấp Phật học đều dùng bộ Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ của Ngài Hàm Thị mà giảng dạy trong giáo trình.
Qua quá trình tu học và nghiên cứu, bỉ nhân tôi, thấy phần “Trực Chỉ” của bộ kinh này, đại cương mà nhận xét, có nhiều ý thú thâm sâu, cũng có thể làm kim chỉ nam cho giới truy lưu giồi mài, tư duy và tu dưỡng có đem lại được những điều bổ ích. Dù vậy, sự bổ ích đó chỉ nghiêng nặng cho giới truy lưu, cho những người dồi dào đức tin đối với Tôn giáo của mình, đức tin đó được khép kín trong chốn tòng lâm “thanh tịnh” cổ kính “u nhàn”.
Cái tâm nhận thức của Tăng tín đồ Phật tử trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa ngày nay đòi hỏi nền giáo lý Phật giáo phải khế cơ, khế lý; nghĩa là phải được cụ thể hóa rõ ràng hơn. Phải biến nền giáo lý đó thành một thứ chất dinh dưỡng đem lại cho con người sự bồi bổ, sự ích lợi cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội và đáp ứng yêu cầu tri thức của người đệ tử Phật ngang bằng tầm cỡ của thời đại. Bởi vì, xã hội loài người, vật chất cũng như tinh thần luôn luôn trong tiến trình vận động và chuyển hóa, mà cái gì không tiến tức đã lùi.
Sau 11 năm, ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, cuộc diện đất nước Việt Nam hoàn toàn đổi mới. Mới về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tất nhiên phải mới cả tư tưởng. Nói đến sự kiện này, tôi thành thật không giấu giếm rằng: Tôi rất may mắn, có phúc duyên, tôi được kịp thời và đúng lúc, hòa mình vào xã hội mới để học tập. Tôi tìm học những cái hay cái mới để bồi dưỡng cho kiến thức của mình. Và sự thật, thời gian qua đem lại cho tôi một kết quả rất bằng lòng, và bằng lòng thật sự, bằng lòng trọn vẹn. Tôi vận dụng những kiến thức của thời đại, dung hòa vào cái vốn liếng Phật học sẵn có của mình. Tôi thấy vô cùng sáng tỏ. Rồi vì đàn em hậu tiến trong giới truy lưu vận dụng vào kinh điển trong giáo trình mà mình đã có, tôi viết thành những giáo án Phật học. Việc làm này tôi chưa dám nói là hoàn bị mọi mặt yêu cầu, nhưng sự thật trước mắt là người học
có cái nhìn chính xác hơn đối với lời kinh, ý Phật. Và tự mình gỡ bỏ cho mình những cặp kính ảm đạm mơ hồ, nhìn đâu cũng thấy toàn bộ một màu buồn tẻ hoang đường, huyễn hoặc, siêu hình vô phương lý luận. Tai họa của sự nhận thức sai lầm chơn lý, có nuôi dưỡng trong con người một tâm hồn yếu đuối, làm cho con người mất hết sức tự tin; con người không tin khả năng thành Phật của mình, không tin nổi rằng: mình vốn có Phật tánh. Con người đã mất khả năng tự tin thì suốt cuộc đời mệnh danh là đệ tử Phật nhưng “linh hồn” thì đã gởi gấm cho “đấng siêu nhiên” nào đó ở một thế giới xa xăm ngoài tầm lý luận của trí thức con người. Đó là cái buồn chung cho trong hàng đệ tử Phật lạc lối ngày nay.
Học kinh Thủ Lăng Nghiêm, con người sẽ xác định được vị trí của mình đối với quả vị Bồ Đề Niết Bàn vô thượng. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta sống bằng “Chơn tâm thường trú” sinh hoạt trong “Thể tánh tịnh minh”. Mà tất cả mọi người đệ tử Phật trong chúng ta đều có “Chơn tâm thường trú” và “Thể tánh tịnh minh” ấy. Chỉ khác nhau ở chỗ:
Còn phiền não khách trần hay phủi hết phiền não khách trần vậy thôi.
Cái từ Trực Chỉ trong giáo án “Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương” nầy không lệ thuộc, không tương quan gì với ý tứ của Ngài Hàm Thị ở thời Minh xa xưa bên Trung Quốc. Mà phần trực chỉ nầy, thể hiện từ quá trình học tập trong thời đại mới với những tư tưởng mà tôi rất bằng lòng như đã nói ở trên.
Để trắc nghiệm sự bằng lòng của mình xem có chủ quan không, tôi đem cái nhận thức mới, vận dụng qua nền giáo lý thậm thâm của Phật, tôi giảng dạy cho Tăng Ni trường Phật học Cao cấp cơ sở I ở Thủ đô Hà Nội, từ năm 1981 đến 1985. Lắng nghe dư luận: Kết quả tốt. Tôi đang thí nghiệm tư tưởng đó ở Trường Phật học Cao cấp cơ sở II ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1985 đến nay. Lắng nghe, có kết quả tốt. Tôi giảng cho Tăng Ni và tín đồ Phật tử ở nhiều giảng đường khá đông đảo ở thành phố Hồ Chí Minh trong nhiều năm liên tục. Lắng nghe, đều kết quả tốt.
Nay tôi viết giáo án “Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương” nầy nhằm phục vụ cho đối tượng Tăng Ni sinh Phật học cao cấp. Hiện nay thì tôi đang giảng cho Tăng Ni sinh năm thứ 3 trường Phật học cao cấp cơ sở II tại thành phố Hồ Chí Minh. Dù vậy, trình độ của người Phật tử trí thức ngày nay, có rất nhiều người hâm mộ nghiên cứu học tập tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa thâm diệu của kinh Thủ Lăng Nghiêm nầy.
Đã là giáo án, tất nhiên còn phải triển khai hướng dẫn rộng thêm nhiều mặt.
Đã là đề cương thì không thể đòi hỏi ở đây những chi tiết quá rộng rãi ở kinh văn nguyên chất.
Tuy nhiên, Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương tương đối đủ sức giúp cho người đọc nắm lấy cái bâu của áo, xách lên cái giềng của lưới, nghĩa là có thể tiếp thụ được cái ý thú thâm diệu, tư tưởng cốt tủy của lời kinh. Dù vậy, sự nhận thức và tiếp thụ đến mức độ
nào việc đó còn tùy thuộc một phần ở con người nữa; cũng như trông một viên ngọc kim cương, chắc chắn ai cũng thấy biết được sắc màu của viên ngọc, nhưng đánh giá đúng trọn vẹn màu sắc hay không còn tùy ở sự có biết thay đổi hướng đứng hay không để nhìn viên ngọc của chính mình.
Việc phê phán khen chê, tôi đã có dự trù và sẵn sàng hoan hỉ tiếp thu. Trong kinh Niết Bàn, đức Phật kể câu chuyện năm chàng mù sờ voi… Rồi họ ấu đả với nhau, vì trong đó, không có anh nào cho rằng mình không biết rõ con voi thật. Con voi như cây cột, con voi như cái quạt mo, vẫn chưa phải vô lý, kia mà !
Này ! Các bạn ơi ! Tôi đã thấy được con voi thật ! Nó thường phe phẩy hai tai, nó dẫm tới dẫm lui và tỏ vẻ thèm thuồng, muốn xin những lóng mía của khách nhàn du trong “vườn bách thú” ấy.
Viết tại Huỳnh Mai Tịnh Thất
Mùa thu năm Bính Dần
Ngày 23 tháng 09 năm 1986
Pháp Sư: THÍCH TỪ THÔNG
CHƯƠNG THỨ NHẤT TỔNG KHỞI
ĐỀ KINH (trang 11)
Thủ Lăng Nghiêm, Trung Hoa dịch: Nhất Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố. Đó là tên một đại Thiền định. Hành giả thành tựu được thứ Đại Thiền định này sẽ có sức trí tuệ giác ngộ Cứu Cánh, một nghị lực Kiên Cố đối với hiện tượng vạn hữu, với Nhất Thiết Sự trên cõi đời này.
Đề kinh nầy nói đầy đủ thì có 19 chử: Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhơn, Tu Chứng
Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm.
Thủ Lăng Nghiêm là tên gọi tắt qua cái từ trọng tâm 19 chữ của đề kinh.
Đề kinh này gồm cả Nhơn, Pháp và Dụ. Đại Phật Đảnh là dụ. Như Lai Mật Nhân là nhơn, Thủ Lăng Nghiêm là Pháp vậy.
Định Thủ Lăng Nghiêm rất sâu nhiệm, dùng tâm phan duyên thường tình mà nhận thức, thì khó mà thể nhận được định nầy. Ví như đem nhục nhãn nhìn Phật đảnh không sao thấy được trọn vẹn.
Tất cả Như Lai trong mười phương có Bồ Đề Niết Bàn đều do thành tựu đại định Thủ Lăng Nghiêm. Định Thủ Lăng Nghiêm là cái nhân kín nhiệm của tất cả Như Lai, cho nên gọi là Như Lai mật nhân. Nói một cách khác: Thành tựu định nầy đồng nghĩa với thể
nhập Phật tri kiến, Như Lai Viên Giác Diệu Tâm.
Tu chứng định Thủ Lăng Nghiêm là tu chứng liễu nghĩa khác với kinh điển dạy tu chứng bất liễu nghĩa của Nhị thừa. Tu chứng ở đây là tu chứng đến Bảo sở, không như sự tu chứng tạm nghỉ ở Hóa thành.
Thành tựu định Thủ Lăng Nghiêm cũng tức là thành tựu vạn hạnh của chư Bồ Tát. Nói ngược lại: Bồ Tát thể hiện lục độ vạn hạnh được viên mãn là khi Bồ Tát đã có định Thủ Lăng Nghiêm.
Đối tượng cứu cánh của Kinh Thủ Lăng Nghiêm là: Chơn Tâm Thường Trú, Thể Tánh
Tịnh Minh.
Công dụng của Thủ Lăng Nghiêm là hàng phục phiền não trần lao để trở về Chơn Tâm
Thường Trú, Thể Tánh Tịnh Minh ấy.
Mục đích cứu cánh của Thủ Lăng Nghiêm là giải thoát giác ngộ đưa con người từ phàm phu đến địa vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Hiểu rõ ý nghĩa của 19 chữ đề kinh là đã nắm được cái tôn chỉ then chốt của toàn bộ kinh rồi vậy.
NHƠN DUYÊN VÀ THỜI ĐIỂM PHẬT NÓI
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Tạng kinh và công trình kiết tập tạng kinh là do ông A-Nan thực hiện. A-Nan là một thị giả tận tụy luôn luôn thân cận tùy tùng Phật, cho nên được nghe tất cả kinh Phật nói trong mọi thời gian. Ông có thiên tư xuất chúng, được Phật khen là đệ nhất đa văn, ông cũng có một ký ức vượt người thường, ghi nhớ trọn vẹn lời Phật không quên sót. Bốn chữ: Tôi Nghe Như Vầy ở đầu mỗi bộ kinh là lời của ông A-Nan ghi theo di chúc của Phật, nhằm xác minh sự trần thuật của mình, rằng kinh nầy là chính ông nghe Phật nói, chớ không phải ông tự ý đặt ra.
Phật nói kinh Thủ Lăng Nghiêm tại tịnh xá Kỳ Hoàn, trong thành Thất La Phiệt. Chúng tỳ kheo thường tùy tùng Phật có 1.250 người đều là bậc vô lậu đại A-La-Hớn. Đứng đầu trong chúng có các ông Đại Trí Xá Lợi Phật, Đại Mục Kiền Liên, Đại Câu Si La, Phú Lâu Na, Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề và ông Ưu Ba Ly. Ngoài ra còn có hàng Bích Chi Phật,
Vô Học và những hàng sơ tâm đồng đến chỗ Phật rất đông.
Bấy giờ vào những ngày mãn hạ và tự tứ của chúng tăng, vì vậy Bồ Tát trong mười phương cũng đến cầu Phật giải quyết những mối tâm nghi trên đường tu tập. Đứng đầu số chúng Bồ Tát là Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.
Nhằm kết duyên với chúng sanh, làm phước điền cho tín thí, trong những ngày nầy Phật và đại chúng phải chia từng nhóm đi chứng trai ở các nhà thí chủ thỉnh mời. Duy có ông A-Nan đã được mời riêng, đi xa chưa về nên không kịp dự vào hàng tăng chúng.
Trên đường về một mình không có thượng tọa cùng đi, ông A-Nan thứ lớp khất thực đúng phép hóa trai, lòng những mong được một đàn việt cúng dường, không luận giàu nghèo hèn, địa vị giai cấp mà chỉ nhằm làm ruộng phước cho họ gieo hạt Bồ Đề, trồng cây Chánh giác ở tương lai. Ông không muốn rơi vào ý niệm cực đoan mà ông Đại Ca Diếp và ông Tu Bồ Đề từng bị Phật quở: Là Sa môn mà tâm không bình đẳng, còn phân biệt… Xả phú thủ bần…
Một bất trắc xảy đến không ngờ, khi ông A-Nan đi qua nhà nàng Ma-Đăng-Già, một cô gái làng chơi. Ma-Đăng-Già dùng tà chú Tiên Phạm Thiên của đạo Satìcala bắt ông vào phòng riêng dụng ý lẳng lơ, diễn trò má dựa vai kề, nâng niu âu yếm, làm cho ông A-Nan gần mất giới thể.
Phật biết ông A-Nan đang mắc nạn Ma-Đăng-Già đến hồi nguy cấp. Khác với mọi lần thọ
trai xong ở Hoàng Cung của vua Ba Tư Nặc, Phật liền trở về tịnh xá Kỳ Hoàn. Sự kiện lạ thường nầy làm cho vua, quan, trưởng giả và cư sĩ rất đông cùng theo Phật về tịnh xá, hy vọng được Phật dạy cho những pháp yếu mới lạ nào chăng !
Bấy giờ tướng vô kiến đảnh của Phật, phát ra một vầng sáng rực rỡ không gian trong ánh sáng báu có đức Hóa Phật ngự tòa sen báu nghìn cánh, tuyên nói thần chú Thủ Lăng Nghiêm.
“Án A Na Lệ. Tỳ Xá Đề. Bệ Ra Bạt Xà Ra Đà Rị. Bàn Đà Bàn Đà Nễ. Bạt Xà Ra, Bàn
Ni Phấn, Hổ Hồng Độ Rô Ung Phấn, Tóa Bà Ha”.
Phật bảo Bồ Tát Văn Thù đem chú đó diệt trừ tà chú của Ma-Đăng-Già. Đồng thời Bồ
Tát Văn Thù cũng đưa ông A-Nan và nàng Ma-Đăng-Già cùng về tịnh xá chỗ Phật ở.
… Ông A-Nan khóc lóc, trách mình: Từ vô thỉ đến nay, chỉ khuyên lo học rộng nhớ nhiều, mà đạo lực không tự cứu được mình, trong cơn vô minh bất giác… Ông tha thiết cầu xin Phật dạy cho ông pháp Chỉ, Quán và Thiền Na là những phương tiện đầu tiên mà các Như Lai tu hành thành tựu Bồ Đề, Niết Bàn của mười phương chư Phật.
Bấy giờ cùng có hằng hà sa Bồ Tát, Bích Chi, Vô Học và Đại A La Hớn, những người hữu học, đều ngồi chỗ của mình cùng yên lặng nghe lời Phật dạy.
TRỰC CHỈ
Phát tâm tu hành tìm đường giải thoát giác ngộ, văn tư tu là điều rất cần, nhưng chỉ nếu có đa văn, là một học giả thì không đủ đảm bảo an toàn khi vô minh phiền não xâm phạm.
Tà pháp tuy có nguy hiểm, nhưng rồi sẽ bị diệt vong. Chánh sẽ thắng tà. Ánh sáng sẽ quét sạch bóng tối.
Tiên Phạm Thiện là tà chú của đạo Satìcala, diệt trừ tà huyễn, Như Lai dùng Hóa Phật của Vô thượng Chánh Biến Tri Giác nói chú Thủ Lăng Nghiêm để diệt trừ. Đây là ý nghĩa: “Dĩ huyễn Tu huyễn” “Tri huyễn tức ly” ở kinh Viên Giác, Phật dạy đồng với ý ở đoạn kinh nầy.
Ma Đăng Già biểu trưng nhiều dục vọng, nặng luyến ái đam mê. Đại Trí Văn Thù biểu trưng vô phân biệt trí, thứ trí nhìn hiện tượng vạn pháp bằng cái tướng Như Thị của chính nó. Đại Trí Văn Thù đem chú Thủ Lăng Nghiêm hóa giải chú Tiên Phạm Thiên của Ma Đăng Già, có nghĩa là: Tình cảm đen tối thì hãy đem lý trí rực sáng mà rọi vào. Sáng đến thì tối phải đi.
Ông A-Nan gần mất giới thể, nói lên hiện tượng bất giác vô minh chợt đến bất ngờ rất là nguy hiểm. Đại Trí Văn Thù đem chú đến hóa giải được an toàn cho ông A-Nan, điều đó có nghĩa là: Trí huệ sáng đến thì vô minh tan đi. Giác sanh thì mê diệt.
Phật Thích Ca bất động, ngồi nơi tịnh xá Kỳ Hoàn cùng đại chúng, chờ sự chiến thắng ma quân mà không sử dụng sức lực và một thứ khí giới nào. Qua sự kiện đó, người Phật tử phải học: Muốn phá yêu thuật, đánh đuổi ma quân diệt giặc vô minh, phải sử dụng trí lực mà không dùng thể lực, phải vận dụng tâm thanh tịnh mà không thể dùng sức lực của bắp thịt chân tay để đối phó trong trường hợp này.
Do lẽ đó, nội dung kinh Thủ Lăng Nghiêm rất quan trọng ở sự nhận thức:
Chơn Tâm Thường Trú, Thể Tánh Tịnh Minh sẵn có trong tất cả mọi người.
Đọc học kinh Thủ Lăng Nghiêm mà không lý giải, không nhận thức được vấn đề Chơn Tâm Thường Trú, Thể Tánh Tịnh Minh, cũng tức là không biết được đại định Thủ Lăng Nghiêm là gì !
Tụng kinh giả minh Phật chi lý: Học kinh cốt tìm hiểu trong đó Phật dạy những gì. Phật tử chúng ta hãy ý thức mà lưu tâm.








CHƯƠNG THỨ HAI: GẠN HỎI CÁI TÂM

TÂM LÀ CĂN BẢN CỦA BỒ ĐỀ NIẾT BÀN VÀ CŨNG LÀ CĂN BẢN CỦA
LUÂN CHUYỂN SANH TỬ
Khi gạn hỏi cái tâm, lần đầu tiên ông A-Nan thưa với Phật: Rằng tâm là sự hiểu biết của ông, là cái sanh ra sự ưa thích và ham muốn ở trong ông. Như khi mắt ông nhìn thấy 32 tướng tốt của Phật và từ đó ông phát tâm xuất gia theo Phật tu hành mong được xuất ly sanh tử…
Nhằm để mở mang cho sự nghị luận, khai thị thâm nghĩa Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật bảo:
- A-Nan ! Ông nên biết, hết thảy chúng sanh vô thỉ đến nay sống chết tương tục đều do không biết CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ, THỂ TÁNH TỊNH MINH, hàng ngày chỉ dùng các vọng tưởng; mà vọng tưởng thì không chơn, vì vậy nên mới có luân hồi.
- A-Nan ! Như lời ông nói: Do tâm và con mắt mà có sự ưa muốn, nhưng nếu không biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể hàng phục trần lao, ví như ông vua một nước bị giặc xâm lăng phát binh đánh dẹp, thì binh ấy cần phải biết giặc ở chỗ nào mới mong dẹp được. Hiện nay ông còn mắc phải luân hồi là lỗi tại tâm và con mắt của ông. Vậy ông hãy chín chắn tìm xem tâm và con mắt của ông hiện ở chỗ nào ?
TRỰC CHỈ
Trước khi chỉ dạy phương pháp tu CHỈ, QUÁN và THIỀN NA, theo lời thưa thỉnh của ông A-Nan, đức Phật gạn hỏi về cái tâm. Gạn hỏi ông A-Nan, được xem như gạn hỏi tất cả những ai có lòng sùng tín đức Phật, học tu theo nền giáo lý Phật. Bởi vì mọi người sùng tín đạo Phật đều tôn trọng cái tâm, mặc dù chưa được hiểu kỹ về nó. Người ta ngưỡng vọng đặt trọn niềm tin ở tâm: Rằng “tội phúc do tâm; vui khổ do tâm” Niết Bàn địa ngục do tâm… Đến như những người chưa biết đạo Phật là gì, người ta vẫn quan niệm: Lương tâm, lương tri là căn bản đạo đức của con người, nó không thể không có trong cuộc sống của xã hội loài người.
Đối với nền giáo lý Phật, tâm là vấn đề then chốt. Kinh tâm địa quán nói:
“Trong tam giới, tâm là chủ
Người hay quán tâm sẽ có giải thoát
Người không quán tâm chắc chắn trầm luân
Tâm chúng sanh cũng như đại địa
Ngũ cốc ngũ quả từ đại địa sanh
Tứ Thánh lục phàm đều do tâm sanh
Cho nên gọi tâm là “tâm địa”.”
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Nếu ai muốn rõ biết
Ba đời mười phương Phật Nên quán tánh pháp giới Tất cả do tâm tạo
Tâm như chàng họa sĩ Vẽ hết thảy ngũ ấm Tất cả pháp thế gian
Không pháp nào không tạo
Tâm và Phật cũng thế
Phật, chúng sanh cũng vậy Tâm, Phật và chúng sanh Tên thì ba mà thể thì một.”
Thực vậy, tâm là một vấn đề không đơn giản. Không như cái hiểu thông thường của nhiều người quan niệm. Nếu không phải đệ tử Phật dùi mài trong giáo lý, thiền quán để tư duy thì người ta khó có thể hiểu được thế nào là:
o Chân tâm
o Vọng tâm
o Tích tập tâm
o Tập khởi tâm
o Duyên lự tâm
o Tích tụ tinh yếu tâm
o Nhục đoàn tâm
o Tâm Vương
o Tâm Sở…
Cho nên muốn hiểu đượcv tâm, cần có quá trình học Phật và dụng công tu tập tư duy. Tâm là căn bản của Bồ Đề, Niết Bàn nếu khéo vận dụng sống theo con đường chánh pháp; trái lại tâm là nguồn gốc của luân hồi sanh tử; nếu “đánh mất” hoặc không phát hiện được cái chơn tâm thường trú sẵn có của mình.
Đạo Phật, cũng như nền giáo lý Phật, xem trọng, rất trọng giá trị của tâm trong nghĩa tâm tánh của con người. Muốn sử dụng tốt cái tâm đó cần phải dụng công tu tập giới, định, tuệ để thân chứng. Nói đến sự tu tập phải đúng chánh pháp, không khéo ý những mong vẻ cọp, nhưng kết quả lại là con chó vện khẳng khiu ! Bởi vì người ta rất dễ lầm tâm… Sự thấy nghe hiểu biết, sự ưa muốn, sự ghét thương… Những tác dụng tâm lý đó, nó không rời tâm, nhưng nó không phải chơn tâm, nó là vọng tưởng, là cái bóng dáng còn sót lại của tiền trần, của “ngũ câu ý thức” (là pháp trần vậy).
Người khéo biết tu tập sẽ có được chân tâm thường trú hiện ở cõi đời nầy. Phật chỉ là một người, nhưng có khác với nhiều người ở chỗ: Phật sống bằng chơn tâm thường trú ấy. Thế cho nên biết rằng: Chân tâm thường trú không phải là cái gì xa rời thực tế. Nó là cái dữ kiện căn bản đem lại sự giải thoát giác ngộ cho con người khi người có biết sử dụng đến, phát hiện ra Chơn Tâm Thường Trú Của Mình.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở
TRONG THÂN
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Không riêng gì tôi mà tất cả mọi người trên thế gian
đều cho cái tâm hiểu biết ở trong thân, còn con mắt thì ở trên mặt.
Phật bảo: A-Nan ! Ông nói rằng tâm hiểu biết ở trong thân là không có lý. A-Nan ! Nay tôi hỏi ông: Phỏng có chúng sanh nào ngồi trong giảng đường nầy mà không thấy không biết Như Lai và đại chúng mà lại thấy biết mọi vật bên ngoài giảng đường không ?
- Bạch Thế Tôn ! Không thể có sự việc như thế được. Nếu ngồi trong giảng đường, trước hết phải thấy biết trong giảng đường, rồi sau nhìn ra cửa mới thấy biết cảnh vật bên ngoài.
- Thật vậy, A-Nan ! Ở trong giảng đường, trước hết phải thấy bên trong, nhìn ra cửa mới thấy biết hoa lá vườn rừng, sự vật bên ngoài. Nhưng theo lời ông nói: Cái tâm hiểu biết ở trong thân thì lẽ ra khi người bị bệnh thổ huyết, cái tâm phải biết gốc bệnh xuất huyết do tỳ, phế hay viêm loét dạ dày. Nầy, A-Nan ! Mọi người trên thế gian không một ai biết được gốc bệnh của mình như vậy.
A-Nan ! Người ngồi trong giảng đường mà không thấy biết Như Lai và đại chúng, lại thấy biết mọi việc bên ngoài đã là vô lý thì cái tâm hiểu biết ở trong thân mà không hiểu biết thương tật của tâm cang tỳ phế thận, lại biết rõ hết trần cảnh bên ngoài, hai sự kiện này đều vô lý như nhau !
Thế cho nên ông nói Tâm Ở Trong Thân là không đúng lý.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở
NGOÀI THÂN
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Vừa nghe lời Phật dạy, tôi nghĩ ra rằng: Tâm tôi thiệt ở ngoài thân. Bởi vì tất cả mọi người không ai thấy biết bên trong thân, ví như ngọn đèn để ở ngoài phòng thì chỉ sáng bên ngoài mà không thể sáng bên trong phòng được. Bạch Thế Tôn ! Nghĩa nầy thật quá rõ ràng chắc không còn lầm nữa !
Phật bảo: A-Nan ! Vừa rồi tôi và đại chúng cùng đi khất thực trong thành Thất La Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Vậy ông hãy xem trong các hàng tỳ kheo, khi một người ăn, các người khác có no không ?
- Bạch Thế Tôn ! Không. Dù các tỳ kheo là A La Hớn, nhưng thân thể khác nhau, không thể người nầy ăn mà người khác no được.
- Cũng vậy, A-Nan ! Nếu cái tâm hiểu biết của ông ở ngoài thân thì thân và tâm riêng cách, tất không dính líu gì nhau. Vậy cái gì tâm biết thì thân không thể biết, cái gì thân biết thì tâm không thể biết. Thế mà, này A-Nan ! Khi tôi đưa tay tôi lên cho ông xem, mắt ông vừa thấy thì tâm ông liền biết. Thân tâm biết cùng một lúc với nhau, thì sao lại bảo là tâm ở ngoài thân cho được.
Vậy nên biết rằng: Ông nói tâm hiểu biết ở ngoài thân, hẳn là không phải vậy.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM NÚP SAU CON MẮT
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Như lời Phật dạy: Vì không biết trong, cho nên tâm không phải ở trong thân. Vì thân tâm cùng biết nên không phải tâm ở ngoài thân. Nay tôi suy nghĩ: Cái tâm hiểu biết đã không biết bên trong mà lại nhận biết rõ sự vật bên ngoài, vậy là nó núp sau con mắt, ví như người lấy chén thủy tinh úp vào hai con mắt, con mắt
dù có vật úp vào, nhưng không làm ngăn ngại sự thấy. Và vì tâm núp sau con mắt nên khi mắt thấy thì tâm liền phân biệt. Sở dĩ tâm không biết tạng phủ trong thân, vì nó không ở trong thân; nhưng tâm lại nhận biết cảnh vật bên ngoài, vì nó ở trên cái mặt.
Phật bảo: A-Nan ! Ông nên nhớ rằng: Con mắt núp sau chén thủy tinh như lời ông nói, thì khi ông trông thấy núi sông cảnh vật, đồng thời cũng trông thấy chén thủy tinh. Nếu tâm núp sau con mắt, thì khi nhận thấy núi sông cảnh vật lúc đó cũng phải nhận thấy con mắt. Nầy, A-Nan ! Thực tế không phải vậy, khi ông nhận biết núi sông cảnh vật, tâm ông
không nhận biết được con mắt của ông.
Do đó, biết rằng: Ông nói cái tâm núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén thủy tinh là không hợp lý.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG NHẮM MẮT
THẤY TỐI LÀ TÂM THẤY TRONG THÂN
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Giờ đây tôi suy nghĩ thế nầy: Thân thể con người trong có ngũ tạng lục phủ, ngoài có thất khiếu cửu huyệt. Tạng phủ có tánh che ngăn nên tối, khiếu huyệt có tánh rỗng không nên sáng. Nay tôi xin thưa với Phật rằng: Nhắm mắt thấy tối, tôi gọi là tâm thấy biết bên trong thân; mở mắt thấy sáng, gọi là tâm thấy biết bên ngoài.
Phật bảo: A-Nan ! Đã gọi là thấy thì cái bị thấy phải “đối” ở trước mắt. Không “đối” trước mắt thì cái nghĩa thấy không còn.
Nếu cái tối đã đối trước mắt mà cứ cho là thấy biết trong thân, vậy khi ở trong một phòng tối, không có ánh sáng, bấy giờ cái gì có ở trong phòng tối ấy đều là tạng phủ của ông cả hay sao ?
Vả lại khi nhắm mắt thấy tối, ông cho là thấy bên trong thân, vậy khi mở mắt thấy sáng, sao ông không thấy cái mặt ?
Đã không thấy mặt thì không thể nói con mắt đối vào trong mà thấy. Còn như thấy được mặt thì cái tâm và con mắt ắt đã lơ lững giữa hư không rồi, còn tương quan gì đến ông nữa ?
Vậy nên biết rằng: Nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân, chỉ là một ngụy thuyết không thành lập được.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG SỰ SUY NGHĨ
HỢP VỚI CHỖ NÀO THÌ TÂM LIỀN CÓ Ở CHỖ ĐÓ
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi thường nghe Phật dạy tứ chúng: Rằng tâm sanh nên các pháp sanh, các pháp sanh nên tâm sanh. Nay tôi suy nghĩ thì sự suy nghĩ đó là tâm của tôi. Nó hợp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó, nó không ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa.
Phật bảo: A-Nan ! Ông cho sự suy nghĩ là tâm, sự suy nghĩ hợp chỗ nào, tâm liền ở chỗ đó. Nay tôi hỏi ông: Cái tâm có suy nghĩ hòa hợp sanh ra, vậy nó có tự thể hay không ? Nếu nó không tự thể thì không thể hợp được với cái gì. Cũng như giới thứ 19 và trần thứ
7 thì làm gì có chuyện hợp nhau ? Bảo rằng nó có tự thể, vậy ông thử thí nghiệm: Lấy tay gãi vai, rồi để ý xem cái tâm “biết đã ngứa”, nó từ trong thân ông ra hay từ bên ngoài
chạy vào ? Nếu từ trong thân ra thì nó phải biết ngũ tạng lục phủ trong thân ông, nếu từ
ngoài vào thì trước hết nó phải thấy biết cái mặt.
Vả lại, tự thể ấy là một hay là nhiều ? Nó khắp thân hay chẳng khắp thân ?
Nếu tự thể có một, khi lấy tay gãi một chỗ, lẽ ra khắp mình đều đã ngứa. Nếu biết đã ngứa khắp mình thì lại không còn biết gãi chỗ nào ! Còn như nhiều tự thể thì hóa ra của nhiều người, còn biết tự thể nào là thể của ông ?
Bảo rằng tự thể khắp mình thì không còn biết được chỗ gãi…
Bảo rằng không khắp mình, tại sao khi đầu chạm xà nhà, dưới chân đạp đinh lại cùng một lúc biết đau ?
Do vậy, bảo rằng: Sự suy nghĩ hợp chỗ nào, tâm ở chỗ đó là không có lý,
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở
CHẶNG GIỮA
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi nhớ lại có lần nghe Phật dạy Bồ Tát Văn Thù về nghĩa thật tướng: Rằng tâm không ở trong cũng không ở ngoài. Nay tôi suy nghĩ: Nếu tâm ở trong thân sao lại không biết bên trong, tâm nếu ở ngoài thân sao thân tâm đồng biết. Tâm không biết bên trong nên không thể nói trong thân. Thân và tâm đồng biết nên không thể nói tâm ở ngoài thân. Do lẽ đó, tôi phát minh rằng: Tâm ở chặng giữa.
Phật bảo: A-Nan ! Ông nói chặng giữa, thật khó mà nêu một chặng giữa nhất định. Giữa thân hay giữa cảnh ? Nếu giữa thân thì đồng như tâm ở trong thân. Bảo rằng: giữa cảnh thì làm sao nêu cái giữa ra được ? Ví như có người lấy một cành cây cắm nêu làm một chỗ giữa, nhưng giữa thế nào được ? Nếu người đứng ở phương Đông thì thấy cây nêu ở phía Tây; đứng ở phương Nam lại thấy cây nêu thuộc về hướng Bắc. Cái giữa đã lẫn lộn như thế, thì cái tâm ở chặng giữa rắc rối bời rời thì làm thế nào nhận biết được sự vật cho chính xác ?
Ông A-Nan thưa: Tôi nói chặng giữa là giữa nhãn căn và sắc trần, nhãn thức sanh ra ở
chặng giữa ấy.
Phật bảo: Nếu tâm ông ở giữa nhãn căn và sắc trần, vậy cái tâm giữa ấy có gồm cả hai
hay không gồm cả hai ? Nếu gồm cả hai thì vật và tâm xen lộn lẫn nhau, còn biết cái gì là tâm cái gì là vật ? Và đã lộn lạo với nhau thì không có cái giữa. Còn như không gồm cả hai bên thì là một. Đã là một bên thì cái chặng giữa ông định đặt nó vào đâu ?
Vì vậy, biết rằng: Ông nói tâm ở chặng giữa là một điều không hợp lý.
ÔNG A-NAN CHO RẰNG TÂM LÀ CÁI KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU CẢ
Ông A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi nhớ trước đây có lần Phật chuyển pháp luân cùng bốn đại đệ tử: Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất, khi đó Phật dạy: Cái tâm tánh hiểu biết nó không ở trong, không ở ngoài, không có chặng giữa và không chỗ trụ, tất cả không dính dáng.
Bạch Thế Tôn ! Nay tôi lấy cái không dính dáng ấy gọi là tâm có được không ?
Phật bảo: A-Nan ! Ông nói cái tâm hiểu biết của ông không dính dáng, vậy tôi hỏi ông: Biển cả, đất liền, núi rừng, hoa, cỏ… nói chung mọi sự vật hiện tượng trên thế gian mà ông cho là không dính dáng, chúng có hay là không có ? Nếu chúng là không, thì ông khỏi đề cập: Rằng dính dáng hay không dính dáng. Bởi vì có ai dính với chuyện lông rùa sừng thỏ bao giờ ! Nếu đã có cái “không dính dáng” thì không thể nói sự vật hiện tượng là không. Đã không phải không thì có tướng. Đã có tướng thì có dính dáng, làm sao không dính dáng được ?
Vậy nên biết rằng: Ông nói cái không dính dáng là tâm, lại càng không hợp lý.
TRỰC CHỈ
Cho rằng tâm ở trong thân, đó là sự hiểu biết thông thường mọi người cùng hiểu giản đơn như vậy. Cho rằng tâm ở ngoài thân là một ý nghĩ táo bạo lạ thường chẳng mất ai đồng tình, còn có thể bị cho là ngờ nghệch ! Cho rằng tâm núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén thủy tinh… Rằng tâm bị tạng phủ che thì tối, khiếu huyệt mở thì sáng…
thực chất là chủ trương tâm ở trong thân bằng hình thức lý luận khác. Bảo rằng cái suy nghĩ là tâm, thực chất là trở lại chấp: Tâm ở ngoài thân vậy. Rằng tâm ở chặng giữa điều này nói lên sự bí lối, chạy càng !… Bảo rằng: Tâm là cái không dính dáng, càng chứng
tỏ lý cùng trí kiệt, chỉ hy vọng chút ánh sáng mơ màng ở cuối đường hầm lý giải.
Ông A Nan được Phật khen là đa văn đệ nhất, vậy mà qua bảy chỗ gạn hỏi cái tâm, lý đã cùng, trí đã kiệt, vẫn chưa xác định được tâm là cái gì và hiện ở đâu. Là đệ tử Phật, ai nghe mà chẳng băn khoăn soát lại tâm mình, ai mà chẳng quạt tim mọc óc.
Thật vậy, thuyền đi thì thấy bờ chạy, mây bay người ta thấy trăng xê dịch, mắt giật nhìn mặt nước thấy rung rinh. Thuyền chưa đậu, mây chưa tan, mắt chưa hết giật mà muốn cho bờ đừng chạy, trăng đừng xê dịch, mặt nước đừng rung rinh, hãy còn không thể được, huống hồ đem cái ý thức sanh diệt vọng tưởng, bóng dáng tiền trần mà suy lường thường trú chơn tâm, thì làm sao hội nhập được ư ?
Ông A Nan luận tâm sai lầm là phải, vì ông chưa tu học Xa ma tha… cho nên nông nổi, vướng vào tà thuật của Ma Đăng Già. Còn Phật tử chúng ta, không chuyên cần học hỏi giáo lý, chẳng dụng ý tinh tấn tư duy mà thích luận đàm, nầy tâm, kia vật, đây vọng, đó chơn của vấn đề vật tâm, thì phỏng có nói… bậy đi nữa, tưởng cũng nên tha thứ, không có gì đáng trách !
Cái kho tàng bí mật ! Thường trú chơn tâm, đức Phật chưa vội mở cửa ở đây, cho nên ông A Nan chưa sao hiểu được, mà phải nhiều lần tha thiết cầu xin Phật chỉ dạy sau nầy. Bởi lẽ, một kiến thức về kỹ thuật khoa học, trong môi trường sinh hoạt vật chất thế gian, muốn hiểu nó phải có quá trình học hỏi, tư duy chuyên môn nghiên cứu. Ở đây ngoài
điều kiện văn tư ra, còn đòi hỏi nhiều ở vấn đề thể nghiệm, tu tập, thực hành, trong lãnh vực tu chứng của đạo Phật nữa.
Cái tâm mà ông A Nan thưa trình lên Phật qua bảy chỗ; đó mới chỉ thuộc phạm vi ý thức mà thôi. Đối với bát thức tâm vương, với thường trú chân tâm, còn phải tiến lên những bước khá dài mới có cơ may gặp gỡ !
LUÂN HỒI SANH TỬ KHÔNG PHẢI LÀ
HIỆN TƯỢNG HỌA GỞI TAI
BAY.
BỒ ĐỀ NIẾT BÀN KHÔNG PHẢI CẢNH GIỚI
SIÊU NHIÊN DO ĐẤNG SIÊU NHÂN NÀO BAN TẶNG
Phật bảo: A Nan ! Rằng tất cả chúng sanh vô thỉ đến nay, điên đảo nhiều cách, giống nghiệp tự nhiên gắn bó với nhau như chùm nho chen chúc trái. Những người tu hành không thành vô thượng Bồ Đề mà lại thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương hoặc Thanh Văn, Duyên Giác đều do không biết hai thứ căn bản cho nên tu tập sai lầm, chẳng khác nào nấu cát mong được thành cơm, dù trải qua nhiều kiếp như vi trần, rốt cuộc vẫn không kết quả.
Những gì là hai thứ căn bản ?
Một, là căn bản sanh tử vô thỉ. Như ông hiện nay và tất cả chúng sanh cũng thế, hằng ngày sử dụng cái tâm phan duyên mà lầm cho là tự tánh của chính mình.
Hai, là căn bản Bồ Đề, Niết Bản vô thỉ. Như ông hiện nay, cái tánh thanh tịnh bản minh vốn có, nó nhậm vận tùy duyên, nhưng ông và tất cả chúng sanh lại bỏ sót mất đi, cho nên tuy cả ngày sống ở trong tánh thanh tịnh bản minh mà không hay không biết. Đành oan uổng lặn lội trong lục đạo chuyển luân !
LẠI GẠN HỎI CÁI TÂM
Phật bảo: A Nan ! Ông muốn biết đường tu Xa ma tha để ra khỏi sống chết, ông hãy trả
lời tôi.
Phật liền đưa cánh tay co năm ngón bảo A Nan rằng: Ông có thấy gì không?
Ông A Nan thưa: Tôi thấy Như Lai đưa cánh tay và co ngón tay lại thành cái nắm tay, nó phản ánh tác động vào tâm và con mắt của tôi. Tôi và đại chúng đều do con mắt mà thấy.
Phật bảo: A Nan ! Ông trả lời với tôi: Rằng: Như Lai co ngón tay làm thành nắm tay, phản ánh tác động vào tâm và con mắt của ông. Con mắt của ông thì thấy việc đó tất nhiên. Còn ông lấy cái gì làm tâm để nhận biết cái nắm tay tôi ?
- Bạch Thế Tôn: Như Lai gạn hỏi tâm tôi, tôi dùng tâm suy nghĩ để trả lời Phật, thì rõ là cái suy nghĩ ấy là tâm tôi vậy.
TÂM THÌ PHẢI CÓ THỂ TÁNH, KHÔNG THỂ TÁNH KHÔNG PHẢI LÀ TÂM
Phật bảo: Sai rồi ! A Nan ! Cái suy nghĩ ấy không phải là tâm của ông. Trong dáng vẻ kinh ngạc, ông A Nan đứng dậy chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Cái suy nghĩ ấy không phải tâm tôi thì gọi nó là cái gì ?
Phật bảo: Đó là cái tưởng tượng tướng hư vọng của tiền trần. Chính cái đó làm mê lầm chân tánh của ông. Từ vô thỉ đến nay, ông nhận tên giặc ấy làm con, bỏ mất tâm tánh bản lai thường trú, nên phải chịu luân hồi.
Ông A Nan thưa: Tôi là em của Phật, vì tâm yêu thương Phật nên mới xuất gia. Tôi cúng dường chư Phật mười phương, phụng sự thiện tri thức, phát tâm đại dũng mãnh, làm tất cả pháp sự khó làm, đều dùng cái tâm ấy. Giả sử có hủy báng Phật pháp, đoạn diệt thiện căn, bất tin tam bảo cũng đều dùng đến cái tâm ấy. Nay Phật phát minh cái suy nghĩ đó không phải là tâm, thì tôi thành ra không có tâm, như gỗ, như đất. Bởi vì, ngoài cái suy nghĩ nhận biết ấy ra, tôi không còn có gì nữa ! Sao Như Lai lại bảo cái đó không phải là tâm ? Tôi kinh sợ quá ! Và cả đại chúng nầy không ai là không hoang mang dao động ! Xin Phật rủ lòng từ chỉ dạy cho chúng tôi những điều chưa liễu ngộ ?
Bấy giờ Thế Tôn rời sư tử tòa, xoa đầu ông A Nan và bảo:
- Nầy A Nan ! Như Lai thường nói: Các pháp sanh ra duy tâm biến hiện. Tâm là cái thể
của tất cả thế giới vi trần, của mọi nguyên nhân và kết quả…
A Nan ! Tất cả hiện tượng có trong thế giới, lớn như biển cả, núi cao, nhỏ như lá cây
ngọn cỏ… gạn xét căn nguyên đều có thể tánh. Cả đến hư không cũng còn có tên và dáng mạo; huống chi cái tâm sáng suốt nhiệm mầu thanh tịnh, thể tánh của sự vật mà tự mình không có thể tánh sao ?
Nếu ông quả quyết cho cái tính hay biết, cái suy nghĩ phân biệt là tâm của ông thì cái tâm
ấy rời sắc, thanh, hương, vị, xúc ra, nó phải còn tính độc lập riêng của nó tồn tại. Hiện
giờ ông đang nghe tôi nói pháp, đó là nhân tiếng mà có phân biệt. Nếu không tiếng thì sự phân biệt của ông không còn. Giả sử diệt hết cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết, chỉ nắm giữ cái u nhàn lặng lẽ bên trong, thì đó cũng là sự phân biệt bóng dáng pháp trần mà thôi.
A Nan ! Chẳng phải tôi bảo ông phủ nhận cái tính tư duy phân biệt ấy không phải là tâm, nhưng ông phải chín chắn suy nghĩ: Rời tiền trần mà vẫn có cái biết, thì đó mới thật là tâm của ông. Còn nếu tính biết rời tiền trần không còn tự thể, thì nó chỉ là sự phân biệt bóng dáng tiền trần. Tiền trần không phải thường còn, khi thay đổi diệt mất đi rồi, thì cái tâm nương tiền trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ. Thế thì pháp thân của ông cũng thành đoạn diệt, còn gì mà tu chứng vô sanh pháp nhẫn !
TRỰC CHỈ
Chúng sanh mà gọi là chúng sanh, sự thật họ không phải là chúng sanh, Như Lai gọi chúng sanh vậy thôi. Khi mê thì gọi chúng sanh, hết mê thì mọi người đều là Phật. Mê thì vô minhh hiển, Phật chất ẩn. Giác thì Phật chất hiển vô minh ẩn và tự hóa giải diệt vong.
Căn bản Bồ Đề, Niết Bàn từ vô thỉ chúng sanh nào cũng sẵn có. Thế mà chúng sanh mãi luân hồi trong sanh tử khổ đau. Sự thật, luân hồi sanh tử không phải là hiện tượng họa gởi tai bay mà là do sự vô minh bất giác của con người chiêu cảm lấy, thông qua những bất thiện nghiệp của thân khẩu ý của con người. Bồ Đề, Niết Bàn không phải cảnh giới siêu nhiên do đấng siêu nhân nào ban tặng, mà nó sẽ hiện hữu khi con người phải giũ sạch hành động bất giác vô minh sai trái ấy. Con người hoàn toàn có khả năng cải tạo những tư tưởng hành động của mình. Muốn được vậy phải tu học Thủ Lăng Nghiêm tam muội để tạo điều kiện cho chân tâm thường trú sẵn có hiện ra.
Căn bản Bồ Đề, Niết Bàn cũng như căn bản luân hồi sanh tử, vốn không phải là cảnh
giới khổ vui cố định do ai đó tạo ra, để khi sử dụng uy quyền, tùy hứng thưởng cho chúng sanh nào trông thấy dễ thương và phạt những chúng sanh nào nhìn qua mà lòng mình không hạp nhãn.
Nền giáo lý trác tuyệt thượng thừa đã phát hiện:
… “Thật tánh vô minh là Phật tánh
Ảo hóa thân nầy tức pháp thân
Pháp thân nhận rõ không vương chấp Phật tánh chơn thường lộ bản nguyên Ngũ uẩn mây thưa chi để dạ
Bọt bèo tam độc bận lòng chi…” (Vô minh thật tánh tức Phật tánh Ảo hóa không thân tức pháp thân Pháp thân giác liễu vô nhất vật
Bản nguyên tự tánh thiên chơn Phật
Ngũ uẩn phù hư không khứ lai
Tam độc Thủy bào hư xuất một…) HUYỀN GIÁC THIỀN SƯ.
Thông thường người ta quan niệm: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, năm cơ quan vật chất ấy hợp lại thành một con người. Con người vật chất ấy được gọi là thân. Còn cái tác dụng
tư duy phân biệt, không rờ mó nắm bắt được, người ta gọi nó là tâm, cũng có trường hợp gọi là ý thức. Ông A Nan đại diện cho Phật tử chúng ta, đóng vai trò một người có quan niệm nhận thức thông thường đó, để cùng Phật luận bàn tìm hiểu cái tâm. Nhưng sự tranh luận giữa Phật và ông A Nan ở đây, không phải nhằm để xác định các dạng nhận thức tư duy ấy là tâm hay là ý thức. Bởi vì tâm hay ý thức, với giáo lý đạo Phật, không có gì cần phải tranh luận. Mỗi khi thuyết pháp Phật đề cập vấn đề tâm, ý, bàn bạc ở các
kinh là một việc thông thường. Đức Phật há chẳng răn dạy đệ tử mình hãy đề cao cảnh giác, Tâm viên ý mã, đó sao ?
Vấn đề Phật muốn dạy ông A Nan và Phật tử chúng ta là: Hãy phát hiện chơn tâm thường trú sẵn có của mình. Nó là căn bản Bồ Đề Niết Bàn đó. Không phát hiện được chân tâm thường trú, dù có lý luận: Rằng nó là cái nầy, nó là cái kia, nó ở trong thân, nó ở ngoài thân hoặc ở chặng giữa… đều không đem lại lợi ích gì. Giả sử có nói đúng thực đi nữa, cái đó cũng vẫn là căn nguyên của tai họa, là động cơ của mọi phiền não: Tham, sân, si, mạn… cái hiện tượng tư duy mà ta gọi là tâm hay ý ấy vốn là vọng tưởng. Mà vọng tưởng thì không chơn. Nó là vang bóng của tiền trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Rời tiền trần, cái gọi là tâm hay ý thức ấy sẽ tan biến mất theo. Cho nên trọng tâm tranh luận giữa Phật và ông A Nan không phải ở chỗ tìm kiếm cái tâm qua hình dáng: lớn, nhỏ, rộng, hẹp, dài, ngắn, vuông, tròn… cũng không phải cần thấy cái tâm qua màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, lục hay sô-cô-la… mà tranh luận để phát hiện cái trong sáng, cái thanh tịnh, cái giải thoát an lành, cái giác ngộ bất động, cái tự tại như như vốn có ở trong mọi con người. Những cái đó, dù con người đang bị phiền não vô minh che phủ, mà bản chất tiềm tàng cố hữu của nó ở trong tâm thể mọi người thì vô thỉ vô chung không lúc nào gián đoạn.
Do vậy, Phật nói rõ với ông A Nan rằng: Không phải tôi bảo ông phủ nhận cái tánh thấy nghe nhận thức không phải là tâm; nhưng ông hãy chín chắn nghĩ suy, làm thế nào rời cái vọng tưởng đến đi, ông phải còn một cái: cái không vọng tưởng đến đi. Cái đó nó ở luôn với ông, nó ở trong ông, nó thật là của ông đấy. Còn muốn gọi nó là tâm hay là ý thức, không quan trọng, việc đó tùy người và hồi sau sẽ còn phân giải…
CÁI TÁNH THẤY CỦA MẮT CHỈ
LÀ HIỆN LƯỢNG
Ông A Nan và đại chúng chưa nhận rõ thế nào là chơn tâm thường trú, lòng còn bối rối ngẩn ngơ.
Phật bảo: A Nan ! Trong thế gian những người tu học tuy đã được chín thứ thiền định, nhưng không diệt hết được mê lầm chỉ thành A La Hớn đều do lầm chấp cái vọng tưởng tử sanh là chơn thật. Thế nên, ông nay tuy học rộng nghe nhiều mà không thành chánh quả.
Ông A Nan khóc lóc bạch Phật: Từ khi tôi phát tâm theo Phật xuất gia, thường ỷ lại lòng thương của Phật, tự nghĩ rằng rồi đây Như Lai sẽ ban cho tam muội, chia sớt đạo quả
cho. Giờ đây mới biết: Thân tâm không ai có thể thay thế cho ai. Từ lâu tôi đã bỏ mất bản tâm của tôi rồi. Thân tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo. Như đứa con hoang cùng khổ, bỏ cha bỏ nhà ra đi. Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật pháp nhiều mà không tu hành,
thì chẳng khác gì người không nghe, như nói ăn mà không ăn rốt cuộc không thể nào no
được.
Kính Bạch Thế Tôn ! Chúng tôi hiện nay còn bị hai chướng buộc ràng, do vì không biết tâm tánh vắng lặng thường nhiên, xin Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng rách rưới, phát minh cho cái tâm nhiệm mầu, sáng suốt và khai mở con mắt đạo cho chúng tôi !
Bấy giờ đức Như Lai từ tướng cát tường hải vân trước ngực phóng ra ánh sáng rực rỡ soi khắp thế giới chư Phật mười phương và chiếu khắp đảnh các Như Lai trong hằng sa cõi nước, rồi xoay về chiếu đến đảnh ông A Nan và đại chúng.
Phật bảo: A Nan ! Trước ông trả lời: rằng ông thấy cái nắm tay của tôi, vậy cái nắm tay do đâu mà có ? Và ông lấy cái gì để thấy ?
Bạch Thế Tôn ! Cái nắm tay có là do bàn tay Phật co các ngón tay lại. Tôi thấy nắm tay của Phật là do con mắt của tôi.
Phật bảo: Nếu không có bàn tay thì không có nắm tay. Nếu không có con mắt (mắt bị đui)
thì không có cái thấy. Hai sự việc đó có giống nhau chăng ?
Bạch Thế Tôn ! Đúng vậy. Nếu không có bàn tay thì không có nắm tay; nếu không có con mắt thì không có cái thấy.
Phật bảo A Nan ! Ông nói như vậy là không đúng. Không có bàn tay thì tuyệt nhiên không có nắm tay, chứ không có con mắt (đui) không phải hoàn toàn không thấy. Ông thử hỏi những người đui xem họ có thấy gì không ? Chắc hẳn họ sẽ trả lời với ông: Rằng
họ thấy tối đen trước mắt. Lấy nghĩa đó mà suy nghĩ tiền trần tự tối, chứ cái tánh thấy nào có hao kém gì ?
Bạch Thế Tôn ! Những người đui trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi rằng thấy ?
Phật bảo: Dù thấy tối đen cũng vẫn là thấy còn thấy sáng hay thấy tối là do tiền trần sáng tối, tánh thấy vẫn y nhiên. Nếu vì tối mà cho là không thấy, vậy thì khi người ta ngồi trong nhà tối không thấy gì hết, chỉ thấy trước mắt tối đen, bỗng nhiên được đèn sáng thấy rõ các vật, chẳng lẽ ông bảo đó là cái đèn thấy hay sao ? Vậy nên suy biết: đèn làm tỏ rõ các vật, nhưng thấy như vậy là mắt chứ không phải đèn. Mắt làm tỏ các sắc, nhưng thấy là tâm, chứ không phải là mắt.
TRỰC CHỈ
Ai ăn nấy no, ai ngủ nấy khỏe, thì sự tu hành, ai tu nấy chứng, không ai tu thế giúp đỡ cho ai được. Có giúp đỡ chăng chỉ làm tăng thượng duyên, mà nhân duyên phải là tự lực của chính mình. Đó là sự thật hiển nhiên, người trí không ai có thể phủ nhận. Vì đó là chân lý. Chân lý đó, nói lên cái chân lý Nhân quả của thế gian và xuất thế gian. Nó bao trùm xuyên suốt hết nền giáo lý Phật. Ông A Nan nói lên lần nầy là lần thứ hai, sau khi ông thoát nạn trở về: Rằng sự tu hành không thể ỷ lại tha nhân, dù tha nhân đó là Như Lai Thế Tôn Vô thượng. Càng không thể có sự ân sủng, ban cho hay tặng thưởng trong tiến trình tiến lên đạo quả giải thoát giác ngộ. Nếu ai đó làm cái việc tặng thưởng, ban cho là tự trái với chân lý, mâu thuẫn với quy luật nhân quả khách quan của vũ trụ vạn hữu, người trí không tin có việc đó xảy ra.
Học Phật cốt ở thực hành. Học không hành chẳng khác nào nói ăn mà không ăn, thì không thể no được.
Ánh sáng là biểu trưng cho trí tuệ. Ánh sáng soi khắp hằng sa cõi nước Phật và chiếu khắp đảnh chư Như Lai trong cõi nước mười phương; sau đó, xoay về chiếu lên đảnh ông A Nan và đại chúng. Sự kiện nầy, nói lên ý nghĩa: Dùng trí huệ giác mà nhìn vũ trụ vạn hữu, thì vũ trụ vạn hữu trở thành thế giới đại đồng, thành nhất chân pháp giới. Trí tuệ giác xóa bỏ hết ranh giới, cõi nước đất đai ngăn cách bởi ý thức hệ vô minh: Tham, sân, si, mạn… Phật và hằng hà sa chư Phật trong mười phương, cùng chung thọ dụng một ánh sáng báu rực rỡ, lung linh màu sắc, trong đó có ông A Nan và đại chúng cũng có phần thụ hưởng của phần mình, trong bầu thế giới đại đồng, nhất chân huy hoàng ấy. Qua bài học thậm thâm đó, Phật tử chúng ta hãy tự cảnh tỉnh lòng mình:
Thân tại hải trung hưu mích thủy
Nhật hành lảnh thượng mạc tầm sơn…
Ánh sáng mặt trời lúc nào cũng có, chỉ vì mù trong bụng mẹ nên không thưởng thức được cảnh trúc biếc, mai vàng, thông xanh, mây bạc, thường xuyên phô diễn dưới ánh sáng
của gầm trời.
Vấn đề nắm tay và cái thấy; cái thấy là mắt hay là tâm, làm cho người đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm, không thể không phân vân, kiểm tra lập trường nhận tức của mình. Ông A Nan mệnh danh là con người đa văn đệ nhất, thế mà còn lúng túng chưa ngã ngũ được bằng nhận thức của mình huống hồ Phật tử chúng ta chẳng mấy tí đa văn, giải quyết sự kiện
ấy còn khó khăn vạn bội. Phật tử đừng xem thường vấn đề thấy, nghe, ngửi, nếm… và vấn đề tâm vật trong đời sống hằng ngày.
Bảo rằng con mắt thấy thì sai lầm, vì thiển cận. Bảo rằng không phải con mắt thấy, càng ngớ ngẩn ngô nghê. Bảo rằng tâm thấy, thì đó là phương tiện của Như Lai chứ chưa hẳn vậy. Bởi vì: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khẳ đắc, vị lai tâm bất khả đắc”. Vậy thì tâm thấy là cái tâm nào ?
Nói rằng tâm thấy, là ý Phật muốn dạy cho ông A Nan biết về “ngũ câu ý thức” về hiện tượng, tỷ lượng và phi lượng của bát thức tâm vương, nói theo thuật ngữ của duy thức học. Tiền ngũ thức, nhãn thức là một, tiếp xúc với ngũ trần, chỉ thông qua hiện lượng. Hiện lượng là sự lượng biết còn trong đệ nhất sát na nghĩa là chưa qua tư duy phân biệt. Sự tiếp thu tiền cảnh của tiền ngũ thức, giống như sự tiếp thu hình ảnh và âm thanh của chiếc máy quay phim màu. Hình ảnh, màu sắc và âm thanh có đủ, nhưng cuồn phim, chiếc máy, thì bình đẳng tiếp thu không mảy may phân biệt. Vậy mà ông A Nan cho rằng mắt thấy thì làm sao không bị Phật quở rầy ! Mắt, chỉ tiếp thu làm tỏ rõ các vật sắc, mà thấy biết là phải có ý thức tâm vương cộng vào.
Nghĩa là: Nhãn thức cộng với ý thức tâm vương thành nhãn câu ý thức. Đử ngần ấy điều kiện mới thành cái thấy biết của mắt. Vì vậy Như lai nói: Mắt không phải thấy mà thấy là do tâm. Tâm ở đây, chỉ cho tâm vương ý thức vậy.
Do đó, ta thấy rõ: Cái thấy của mắt, chỉ là hiện lượng thôi, cho nên chưa đầy đủ yếu tố để gọi là mắt thấy. Vì vậy:
Nói mắt thấy đã sai
Nói không phải mắt thấy càng sai
Nói tâm thấy, chỉ là Như Lai phương tiện !
Mà phải nói: cái thấy của mắt chỉ là hiện lượng !
GẠN HỎI NGHĨA KHÁCH TRẦN NHẰM CHỈ RÕ
HIỆN TƯỢNG VỌNG TƯỞNG DIỆT SANH.
VÍ DỤ CHỦ VÀ HƯ KHÔNG ĐỂ
KHAI THỊ
BẢN THỂ CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ
Bấy giờ đức Thế Tôn giơ cánh tay mềm mại lên, bảo ông A Nan và đại chúng: Sau khi thành đạo, lần đầu tiên ở Lộc Giả Uyển, tôi có dạy cho nhóm ông A Nhã Kiều Trần Như rằng tất cả chúng sanh không thành Vô thượng Bồ Đề và A La Hớn, do vì phiền não khách trần làm mê hoặc. Thuở đó, bọn ông do đâu mà tỏ ngộ, hiện nay được thành chánh quả ?
Ông Kiều Trần Như đứng dậy thưa: Bạch Thế Tôn ! Nay tôi đã già ở trong đại chúng, tôi được cái tên Giải, là do thuở đó tôi tỏ ngộ được ý nghĩa hai chữ khách trần. Khách là người đi đường, khi cần, họ vào quán trọ thuê phòng hoặc ở, hoặc ngủ, hoặc ăn. Ăn ngủ xong xếp hành lý lên đường, không ở luôn được, còn người chủ thì ở vĩnh viễn không phải đi đâu nữa. Từ suy nghĩ đó, tôi hiểu ra rằng: Khách có đến, đi; còn chủ thì ở luôn không đi đâu hết.
Về nghĩa chữ trần, thì vào lúc mặt trời mới lên, ánh sáng xuyên vào các kẽ hở, lỗ thủng của mái nhà, nhìn theo làn ánh sáng trong khoảng hư không yên lặng ấy, tôi thấy vô số bụi trần li ti loạn động, cuồn cuộn tuôn bay. Do đó tôi nhận ra được nghĩa chữ trần: Trần thì lay động, còn hư không thì yên lặng tuyệt nhiên !
Phật bảo: Đúng vậy.
Đoạn, Phật đưa tay lên, co năm ngón tay lại rồi mở ra và hỏi:
- A Nan ! Ông thấy gì ?
- Tôi thấy bàn tay Phật, nắm lại rồi mở ra. A Nan đáp.
- Ông thấy tay tôi có nắm có mở hay cái thấy của ông có nắm có mở ?
- Thưa ! Tay Phật có nắm có mở, chứ cái thấy của tôi làm sao có nắm mở được!
- Cái gì động ? Cái gì tĩnh ? Phật hỏi.
- Thưa ! Bàn tay của Phật không yên, chứ cái thấy của tôi còn không có tĩnh thì làm chi có động !
Phật bảo: đúng vậy.
Bấy giờ Phật dùng tay phát ra một luồng ánh sáng, chiếu qua phía bên phải của ông A Nan. Ông A Nan quay nhìn qua bên phải. Phật lại phát qua phía trái, ông A Nan quay đầu nhìn qua phía trái.
Phật bảo: A Nan ! Hôm nay vì sao đầu ông động lay qua lại như thế ?
- Bạch Thế Tôn ! Tôi vì thấy hào quang của Phật phóng ra bên phải và bên trái của tôi.
Đầu tôi lay động bởi ngó theo hào quang của Phật.
- Đầu ông lay động quay bên phải bên trái. Vậy cái đầu ông động mà cái thấy của ông có
động chăng ?
- Bạch Thế Tôn ! Đầu tôi tự lay động, chứ cái thấy còn không biết nó ở chỗ nào, thì lấy gì mà lay động !
Phật bảo: Đúng vậy.
Bấy giờ, Phật bảo ông A Nan và đại chúng: Rằng mọi người ai cũng có thể nhận biết: Không ở luôn là khách, chủ thì vĩnh viễn không đi đâu. Bụi trần thì lay động còn hư không yên lặng tuyệt nhiên. Có nắm có mở là tay, cái thấy thì không có nắm mở. Quay qua quay lại là đầu, tánh thấy thì không hề xoay chuyển.
Vậy mà, các ông hiện nay lấy cái động làm thân, cái động làm tâm, lấy cái động làm cảnh, bỏ mất đi tâm tánh chơn thường, bất động, yên lặng nó thường ở luôn với mình. Hằng ngày làm những việc trái ngược, nhận vật làm thân, nhận vọng tưởng làm tâm, xoay vần trong đó, tự nhận lấy sự trôi lăn trong sáu nẻo !
TRỰC CHỈ
Đọc đến đoạn kinh nầy, người đệ tử Phật có tư duy tu tập, thiền định ít nhiều, có thể bừng tỉnh ngộ: Rằng thường trú chơn tâm không phải ở đâu xa xôi cách trở, cần phải tìm kiếm hay cầu khẩn van xin mới có. Tìm thường trú chơn tâm cũng không cần ở ngay chánh
điện của ngôi chùa đồ sộ nguy nga có tượng Phật to, có đại hồng chung lớn. Tìm chơn
tâm thường trú cũng không cần đóng cửa trong một vuông phòng kín và ngồi thờ thẩn với đôi mắt lim dim. Thường trú chơn tâm muốn tìm nó chỉ cần có chất liệu thiền tư. Thiền tư hay thiền định với nghĩa tư duy quán chiếu. Người đệ tử nào muốn đi trên đường Bồ Đề, Niết Bàn chỉ cần tu tập tư duy quán chiếu thân tâm, cảnh giới quanh cuộc sống hằng ngày của bản thân mình. Đức Phật đã dạy quá rõ ràng. Rằng cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc, cái biết, nói chung là những tác dụng nhận thức của sáu giác quan, Phật bảo chúng không phải chơn tâm, nhưng chúng cũng không rời ngoài chơn tâm mà có. Biết sử dụng, trong vọng tâm ta tìm thấy chơn tâm thường trú. Không biết sử dụng chỉ có toàn vọng tưởng, bóng dáng của tiền trần; cũng như nước thanh bình thạnh trị thì mọi người công dân trong nước là tôi hiền con thảo. Khi thượng bất chánh thì… cũng những công dân ấy trở thành tôi loàn con giặc. Tiền trần luôn luôn thay đổi lúc có lúc không, thì sự
hồi tưởng lại cái tướng của tiền trần cũng lúc sanh lúc diệt. Vì vậy, Phật gọi sự hồi tưởng bóng dáng tiền trần vào trong ký ức phân biệt chỉ là vọng tâm, là những phiền não khách trần. Vì là khách cho nên không ở được luôn. Vì là trần nên không có phút giây yên lặng. Phật dạy cho người đệ tử phương pháp tu học để sống với sự an lành, yên lặng, như hư không và quay về với vai trò người chủ, không đi đâu nữa. Vì ngoài người khách đến đi, còn có chủ không đi, ở lại. Trong sự loạn động cuồn cuộn tuôn bay của trần, còn có hư không yên lặng không hề lay chuyển. Trước sự nắm mở duỗi co qua nắm tay của Phật, còn có cái không duỗi co nắm mở đó là cái thấy của ông A Nan. Thế thì, sự nhận thức
của sáu giác quan, luôn luôn thay đổi từng sát na, từng phút từng giờ, nhưng ngoài sự
thay đổi luôn luôn ấy, con người còn một cái. Cái đó là gì ?… Là chơn tâm thường trú.
Theo lời Phật dạy thì chân tâm thường trú có thể biểu hiện ở mọi con người, khi trí tuệ con người có khả năng nhận thức được vọng tâm. Nhận được vọng tâm cũng nhận thức được gì là vô minh phiền não khách trần để rồi hóa giải chúng đến độ hoàn toàn sạch bóng.
Sự bác bỏ của Phật đối với ông A Nan về vấn đề tâm thấy hay mắt thấy, sự thật chẳng có gì quan trọng giữa hai thầy trò. Nhằm mục đích giáo dục chúng sanh, Phật bày ra cuộc vấn đáp cho lý cùng trí tận vậy thôi. Giải quyết vấn đề đó, khó khăn gì đối với người đệ tử tinh tấn, đa văn như ông A Nan ấy !
Cái gì thấy ? Mắt có thấy được không ? Thấy cách nào ? Cần bao nhiêu điều kiện để thấy
? Sao gọi là tâm thấy ? Tâm thấy cách sao ? Tâm ở đâu ?… Bao nhiêu câu hỏi đó, ông A Nan đem pháp tướng học ra giải quyết, dễ như người ta thò tay vô túi mà lấy… tiền tiêu, chẳng có gì khó khăn cả.
HÁN BỘ HẾT QUYỂN MỘT










CHƯƠNG THỨ BA
TRONG THÂN THỂ VÔ THƯỜNG SANH DIỆT
CÒN CÓ CÁI THƯỜNG, BẤT SANH BẤT DIỆT
Ông A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình vô thỉ đến nay bỏ mất bổn tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng tiền trần làm tâm. Ngày nay được Phật khai ngộ, như em bé mất sữa bỗng được gặp mẹ hiền, đồng chấp tay lễ Phật, cầu xin chỉ cho chỗ chân vọng thực hư, ở nơi thân tâm hiện tiền phát minh hai tánh: sanh diệt và không sanh diệt.
Bấy giờ vua Ba Tư Nặc đứng dậy thưa:
- Bạch Thế Tôn: Khi chưa được gặp Phật, tôi nghe bọn Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử nói rằng: Thân này chết rồi là mất hẳn, gọi đó là Niết Bàn. Nay tuy được gặp Phật, nghe
pháp, nhưng tôi vẫn còn hồ nghi, xin Thế Tôn chỉ dạy, làm thế nào để được nơi thân tâm này cái gì không sanh diệt ?
Phật bảo: Này Đại Vương ! Như Đại Vương đã biết: Cái thân vô thường, vận động, sanh diệt chuyển biến theo năm tháng của thời gian, không có một giây phút, một sát na dừng trụ. Từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, độ thanh xuân nào rồi cũng đến lúc da mồi tóc bạc… mà Đại Vương biết chắc là nó sẽ tiêu mà hoại diệt. Thưa Đại Vương ! Đó là chân lý của cuộc đời; hữu tình vô tình cùng chung một định luật sanh diệt, diệt sanh của vạn pháp hiện tượng.
Nhưng nầy ! Thưa Đại Vương ! Như Đại Vương vừa nói: Lúc 3 tuổi cùng mẹ đi cúng lễ thần Kỳ Bà Thiên, đó là lần đầu tiên Đại Vương thấy nước sông Hằng, rồi năm 13 tuổi cho đến nay Đại Vương 62 tuổi mà “cái thấy” của Đại Vương thấy nước sông Hằng vẫn y nguyên không sai khác !
Thưa Đại Vương ! Dựa trên khái niệm thời gian tương đối mà đánh giá tuổi tác con người. Hiện nay mặt Đại Vương tuy nhăn, nhưng tánh thấy của Đại Vương không nhăn; tóc Đại Vương bạc, mà cái thấy của Đại Vương không bạc. Cái có bị nhăn, bị bạc là những cái có sanh diệt, đổi thay. Cái không nhăn, không bạc, không bị chi phối bởi luật vô thường thì làm chi có thay đổi ! Có đổi thay thì có hoại diệt, không thay đổi, đồng nghĩa với bất diệt, bất sanh. Đại Vương còn sợ gì cái thuyết “đoạn kiến” của bọn Mạt Già Lê, bảo rằng: “Thân nầy chết là mất hẳn”?
Nhà vua nghe lời Phật, nhận biết về sau khi bỏ thân nầy không phải mất hẳn. Vua và đại chúng hớn hở vui mừng, được cái chưa từng có.
TRỰC CHỈ
Đọc đoạn kinh trên, tôi chợt liên tưởng đến câu thơ của Tố Như tiên sinh, một thi hào
Việt Nam, thế kỷ 18 viết:
“… Rằng: những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh”.
Cái “Tinh anh” mà Tố Như tiên sinh nói, ta có thể hiểu cái từ: “Linh tri”, “Giác Linh”, “Linh hồn” hay “Thần thức” tuyệt đại đa số loài người trên mặt đất đều tin tưởng, rằng sau khi con người chết, còn “một cái” trong những từ đó. Nhưng “cái đó” sẽ ở đâu và sẽ đi về đâu, điều đó tùy tập quán tín ngưỡng và tôn giáo mà người đó tôn thờ.
Ở đoạn kinh nầy, cái “tinh anh” không mất của con người sau khi chết, người đệ tử Phật có thể hiểu đó là: “Bản thể chơn như của hiện tượng vạn hữu”, cũng gọi là “Như Lai Tàng” và ta sẽ thấy đức Phật dạy rõ ở những đoạn kinh sau: Bởi vì theo giáo lý Phật không có một hiện tượng sanh diệt nào rời ngoài bản thể chơn như của nó; cũng như không có một bản thể chơn như nào không biểu hiện qua hiện tượng vạn hữu. Những đợt sóng sanh diệt, sanh trên mặt nước phẳng lặng vốn dĩ bất sanh. Nếu sóng lặng đi rồi, mặt nước phẳng lặng như tờ hãy còn nguyên đó.
Phật khai thị cho vua Ba Tư Nặc và đại chúng: Sắc thân là một hiện tượng, một dạng vật lý cho nên bị chi phối bởi định luật vô thường sanh diệt của vạn pháp hiện tượng hữu vi. Trong cái vô thường còn có cái thường, đó là cái tánh thấy, tánh thấy cũng là một hiện tượng, nhưng là hiện tượng của một dạng tâm lý của bản thể chơn như, cho nên sự sanh diệt của hiện tượng tâm lý chỉ là sự tùy duyên biểu hiện của bản thể. Do vậy, thân già nhưng tánh thấy không già; tóc bạc mà tánh thấy không bạc… Cái có già có bạc có đổi thay rồi sẽ hoại diệt mất đi. Bản thể chân thường thì không chịu sự chi phối của hiện tượng vật lý hữu vi sanh diệt…
“Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng
Sự vật đổi thay trông trước mắt
Già nua biểu hiện mái tóc nâu
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Trước sân, xuân nọ cành mai hãy còn”
(Xuân đáo bách hoa khai Xuân khứ bách hoa lạc Sự trục nhãn tiền quá Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai) MÃN GIÁC THIỀN SƯ
Mai nở mai rụng là hiện tượng sanh diệt của hoa mai trong một thời kỳ 5 đến 7 ngày. Còn cây mai trước sân của đêm xuân hôm ấy, sẽ tiếp nối trưởng thành để rồi xuân tới và xuân tới nữa cứ lại trổ hoa mai…
RẰNG NGƯỢC RẰNG XUÔI CHỈ LÀ SỰ ÁP ĐẶT CHỦ QUAN, MỘT Ý THỨC CHẤP MẮC !
Ông A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Phật, chấp tay quỳ gối và thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Nếu tánh thấy thật không sanh diệt, cớ sao Thế Tôn lại gọi bọn chúng tôi là bỏ mất chơn tánh làm việc trái ngược ? Xin Phật mở lòng thương xót rửa sạch trần cấu cho chúng tôi !
Bấy giờ Phật duỗi cánh tay hướng xuống đất bảo ông A Nan rằng:
- Ông thấy tay tôi như thế này là xuôi hay ngược ?
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Mọi người thế gian cho như vậy là ngược, còn tôi thì không biết thế nào là ngược, thế nào là xuôi.
Nếu người thế gian cho như vậy là ngược thì họ gọi thế nào là xuôi ?
- Như Lai đưa cánh tay hướng lên trên không thì gọi là xuôi.
Bấy giờ Phật đưa cánh tay lên và bảo ông A Nan: Cái trái ngược của các ông là ở chỗ đó chỉ một việc thay đổi lẫn nhau, vậy mà người thế gian gán cho cái thấy một ý niệm
Ngược, Xuôi ! A Nan ! Thân ông và thân Như Lai chẳng khác gì nhau, nhưng thân Như Lai là pháp thân thanh tịnh chánh biến tri giác, còn ông thì gọi là người làm việc trái ngược bỏ mất chân tánh. Vậy ông hãy chín chắn nghĩ suy tìm xem sự trái ngược của thân ông và thân Phật khác ở chỗ nào ?
Ông A Nan và đại chúng chăm chăm ngó Phật mắt không lay động chẳng biết thân tâm trái ngược do ở nơi đâu ?
Đức Phật khởi lòng thương xót, phát tiếng hải triều, bảo khắp đại chúng: Các thiện nam tử ! Tôi thường nói: Sắc, tâm và tâm Sở pháp đều duy tâm hiện. Thân tâm các ông chỉ là vật ở trong chân tâm minh diệu. Tại sao các ông bỏ mất đi cái chân tâm minh diệu quý báu mà nhận lấy cái mê trong ngộ ?
A Nan ! Do mê muội nhận thấy không. Cái không phải không, nhận cho là sắc. Sắc có xen tưởng thì nhận đó là thân. Cảnh sắc bên ngoài phản ánh tư tưởng bên trong rồi cho cái tác dụng nghĩ ngợi lăng xăng là tâm tánh. Một phen lầm cho đó là tâm thì quyết định cũng lầm cho “tâm ở trong thân”. Do đó, không thể hiểu được rằng: Sắc, tâm, núi, sông, đất liền cho đến cả hư không đều là những vật trong Chân Tâm Minh Diệu. Thật chẳng
khác trăm ngàn biển lớn sạch trong chỉ nhận một cái bọt nước rồi cho đó là nước của toàn thể đại dương. Bọn các ông là kẻ mê trong những người mê, chỉ một cánh tay tôi mà nảy sanh quan niệm Ngược xuôi, tranh biện. Như Lai gọi các ông là những người đáng
thương xót.
TRỰC CHỈ
Duy thức luận nói:
“Danh sư hổ vi khách
Kỳ tánh ưng tầm tư”
Đứng bên mặt chơn tế, vạn pháp vốn không có tuổi tên. Đặt ra tên tuổi là do biến kế chấp của ý thức con người. Bên mặt tục đế, xã hội loài người không thể không đặt tên sự vật để khái niệm để nhận thức và xưng gọi. Đặt cho sự vật vạn pháp một danh ngôn để xưng gọi mà con người sống phù hợp theo tánh hiện thực khách quan của nó, thì cũng chẳng có gì tội lỗi đáng trách. Trái lại, đó còn là một yêu cầu tự nhiên của quá trình tiến hóa, cho cuộc sống loài người. Tai hại của danh ngôn là do sanh lòng chấp mắc. Chỉ một cánh tay Phật duỗi xuống mà sanh khởi ý niệm ngược xuôi. Mầm mống tranh chấp thị phi dựa trên cơ sở “biến kế” ấy phát sanh. Cái cánh tay hiện thực, thì mọi người đánh mất
cái vai trò Như Thị khách quan của nó. Lấy một cánh tay Phật làm ước lệ, để chỉ rõ cho đại chúng cái tánh chất tai hại của “biến kế danh ngôn”. Do “biến kế sở chấp”, con người không nhận thức đúng tự tánh “y tha khởi” của sự vật hiện tượng. Vì vậy, con người không sao biết được tánh “thắng nghĩa” “chơn như” và tánh “thường như viên thành thật” của hiện tượng vạn pháp.
Cùng là thân, mà thân Phật gọi là pháp thân thanh tịnh Chánh biến tri giác. Bởi vì Như Lai làm chủ bản thân, làm chủ vạn pháp, làm chủ tâm tánh mình. Như Lai nhìn hiện tượng vạn pháp với cái Tri kiến Vô kiến. Vì vậy, Như lai là bậc Pháp Vương. Ông A Nan và tất cả chúng sanh nhận thức vạn pháp theo Tri Kiến Lập Tri cho nên Phật gọi là những người làm việc trái ngược bỏ mất chơn tánh.
“Sắc, tâm và tâm Sở pháp đều duy tâm hiện”. Chữ tâm phải được hiểu là đệ bát thức
Alaya. Chỉ có đệ bát Alaya mới đủ tiêu chuẩn là “Chân tâm minh diệu”. Duy thức luận nói:
“Tính duy vô phú, ngũ biến hành
……………………………… Hạo hạo tam tàng bất khả cùng Uyên thâm thất lảng cảnh vi phong Thọ huân trì chủng căn thân khí…”
Nếu cho rằng tâm ở trong thân, chẳng khác nhận một cái bong bóng nước cho là nước của toàn thể đại dương. Nên biết rằng sắc, thân, núi, sông, đất liền… cho đến cả hư không, đều là những vật trong Chân Tâm Minh Diệu ấy !
LỰA BỎ TÂM VƯƠNG VÍU CẢNH DUYÊN
ĐỂ CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG CHỖ TRẢ VỀ
Ông A Nan nghe lời dạy bảo thâm thiết của Phật, sung sướng rơi nước mắt, vòng tay mà bạch Phật rằng: Tôi nghe diệu âm của Phật, dù nhận rõ chân tâm minh diệu vốn là tâm địa thường trú viên mãn, nhưng chỉ nhận trên pháp âm Phật nói. Tôi đang dùng tâm vương víu cảnh duyên thỏa mãn lòng ái mộ Phật. Tôi cũng chỉ nhận thức được một cách mơ hồ chưa dám nhận đó là tâm địa vốn có của mình. Mong Phật thương xót dùng viên âm dạy bảo, nhổ gốc nghi ngờ cho tôi được về với đường vô thượng giác.
Phật bảo: Bọn ông còn lấy tâm vướng víu cảnh duyên mà nghe pháp, thì pháp đó cũng chỉ là pháp tướng vướng víu tạm thời, chưa phải nhận được pháp tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ trăng, người trí nương ngón tay để tìm thấy trăng, nhưng nếu cho ngón tay là trăng, thì không bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất luôn cả ngón tay nữa; vì ngón tay mà đã tưởng là trăng, thì cũng không biết thế nào là sáng, thế nào là tối ! Nay ông lấy sự phân biệt pháp âm của tôi mà cho là tâm, thì lúc không có pháp âm, lẽ ra ông phải còn phân biệt. Ví như người ngủ trọ, hết ngủ thì đi, còn chủ quán trọ thì vĩnh viễn ở luôn không đi đâu nữa. Cũng vậy, nếu thật là tâm của ông thì không đi đâu, tại sao rời âm thanh thuyết pháp của tôi, cái phân biệt của ông không còn ? Sự phân biệt về âm thanh đã vậy. Sự phân biệt sắc, hương, vị, xúc, cho đến các phi sắc phi không của pháp trần cũng vậy. Rời đối tượng phân biệt ra cái phân biệt của ông phải thường còn, thì đó mới thật là tâm tánh của ông. Trái lại, hễ đối tượng không có, phân biệt cũng không còn, thế là tâm tánh của ông có chỗ trả về, như khách đến rồi đi, không còn là địa vị chủ nhân ông
thường trú.
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nếu tâm tánh tôi có chỗ trả về, vậy cái chơn tâm minh diệu Như Lai nói, vì sao lại không có chỗ trả về ? Xin Phật thương xót vì chúng tôi dạy bảo.
Phật bảo: A Nan ! Cái thấy mà ông thấy tôi, dù không phải là chân tâm minh diệu, nhưng nó là tánh thấy trong sáng chưa nhuốm trần lao. Nó như vành trăng thứ hai chứ không
đến nỗi như bóng trăng đáy nước. Ông hãy chín chắn lòng nghe, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không chỗ trả về.
A Nan ! Đại giảng đường này mở rộng, phương đông mặt trời lên thấy sáng suốt. Đêm ba mươi không trăng mây mù, thấy tối đen. Chỗ có cửa mở thấy thông thương. Chỗ có
tường thấy ngăn bít. Chỗ có phân biệt được thấy cảnh sắc. Chỗ trống trơn thấy hư không. Chỗ bụi cát tung lên thấy mịt mù. Chỗ mưa tạnh mây tan thấy quang đãng.
A Nan ! Ông đã thấy các tướng biến hóa như vậy, nay tôi trả các tướng ấy về chỗ bản nhơn của nó. A Nan ! Cái sáng trả về cho mặt trời, vì không mặt trời thì không sáng; bản nhơn cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả về cho mặt trời. Tối đen trả về cho đêm ba mươi. Thông thương trả về cho cửa. Ngăn bít trả về cho tường. Cảnh sắc trả về cho phân biệt. Hư không trả về cho khoảng trống. Mịt mù trả về cho cát bụi. Quang đãng trả về cho mưa tạnh mây tan. Sự vật thế gian tuy nhiều, nhưng không ngoài các thứ đó. Còn cái thấy mà ông thấy tám thứ đó, ông định trả nó về đâu ? Nếu ông trả về cho sáng thì lúc không có sáng lẽ ra ông không thấy được tối. Nhưng trước mắt ông, sáng và tối có sai khác mà cái thấy của ông thì không sai khác. Cái có chỗ trả về hẳn nhiên không phải là ông. Còn cái thấy không thể trả về đâu, nếu không phải ông thì là ai len vô đó ?
Vậy nên biết rằng: Tâm ông vốn nhiệm mầu, thanh tịnh sáng suốt mà ông tự mê mờ bỏ mất gốc, nhận chịu luân hồi thường bị chìm đắm trong biển sanh tử. Thế nên Như Lai gọi các ông là những người đáng thương xót !
TRỰC CHỈ
Nghe mà sanh lòng hoan hỷ, sung sướng rơi nước mắt là thành tựu bước đầu: “âm hưởng nhẫn” của người đệ tử Phật. Sanh lòng ái mộ, nhận rõ chân tâm minh diệu qua pháp âm Phật, nhưng chỉ nhận một cách mơ hồ đấy là hiện tượng “nhu thuận nhẫn” được phát sanh. Chưa dám nhận chân tâm diệu minh là tâm địa vốn có của mình, vì ông A Nan bấy giờ chưa thể nhập “vô sanh pháp nhẫn”.
Nghe pháp mà chỉ nghe bằng tâm vướng víu pháp âm, dù là pháp âm Phật, thì cũng chưa lắng nghe được pháp tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp vốn có ở lòng mình. Phải
tự uống trà mới biết hương vị của trà ngon. Chỉ nghe nói trà ngon thì mới biết hương và vị trà không đời nào hiểu đúng. Nương ngón tay để nhìn trăng, chứ ngón tay không bao giờ là trăng được.
Dùng tâm phân biệt tiếp nhận pháp âm Phật, tâm đó không thể là chơn tâm được, vì nếu pháp âm không còn nữa thì cái tánh “thường trú” cũng đã mất theo. Chả lẽ ông A Nan lúc bấy giờ đã trở thành người gỗ đá vô tri vô giác ! Đối với sắc, hương, vị, xúc cũng vậy. Tiền trần lúc có lúc không, nhưng cái tâm thanh tịnh “vô phân biệt” của con người không vì tiền trần mà theo sanh theo diệt. Phát hiện được cái tâm thanh tịnh “vô phân
biệt” vốn có của mình, Phật gọi đó là “chơn tâm thường trú”. Cái đó không có chỗ trả về.
Thế gian, hiện tượng tuy nhiều, nhưng tóm thu, không ngoài tám tướng: Sáng, tối, thông, bít, sắc, không, trong, đục. Tám tướng đều có thể trả về chỗ sở nhơn phát sanh ra nó. Nhưng tánh thấy của ông A Nan nhận thấy tám tướng kia, không thể trả về đâu. Rõ ràng cái tánh thấy ấy là của ông A Nan chớ chẳng phải của ai khác. Tiền trần đối tượng có
đến có đi, có sanh có diệt, như người “khách” cho nên ví “khách trần”. Nhận thức chủ thể
thường xuyên hiện hữu, như “chủ” cho nên gọi: “chơn tâm thường trú”.
Dù vậy, sự thường trú của tánh thấy chỉ là hiện tượng biểu hiện của chơn tâm, chớ chưa phải chơn tâm, nên ví vành trăng thứ hai, chưa phải mặt trăng thật. Nói cách khác đó là chân tâm, bên mặt hiện tượng tùy duyên. Chừng nào nhận thức và thể nhập Bản Thể bất biến của chơn tâm mới gọi là người thấy được mặt trăng thật.
Ô hô ! Pháp hải u huyền trần tâm nan hội ! Chơn tâm hạo đảng như nguyệt lâm thủy diện, bát khai thủy diện, nguyệt hoàn thâm !
VẬT LÀ ĐỐI TƯỢNG PHÂN BIỆT CỦA TÂM.
TÂM BIỂU HIỆN QUA TÁNH
THẤY
LÀ CHỦ THỂ PHÂN BIỆT VẬT
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn: Tuy tôi biết tánh thấy không thể trả về, nhưng làm sao biết được đó là chơn tánh của tôi ?
Phật bảo: A Nan ! Ông chưa được quả vô lậu, nhờ thần lực Phật mà thấy được cõi Sơ thiền: trong khi, ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm phù đề như quả quýt để trên bàn tay. Bồ Tát thấy cùng tột các quốc độ thanh tịnh của mười phương chư Phật. Còn chúng sanh thì thấy chẳng được xa hơn gang tấc.
A Nan ! Tôi cùng ông xem cung điện Tứ Thiên Vương, chặng giữa các hiện tượng đất liền biển cả và hư không, tuy có nhiều hình sắc khác nhau, sáng tối không đồng, nhưng không cái gì không phải tiền trần đối tượng phân biệt. Những thứ mà ông thấy, ông hãy lựa xem cái gì là chủ thể, cái nào là đối tượng phân biệt của ông ?
A Nan ! Cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng… cho đến thất kim sơn, xem xét khắp cùng, dù có thấp cao lớn nhỏ và màu sắc không đồng nhưng cũng đều là vật chớ chẳng phải ông. Lần xem mây kéo, chim bay, gió động, bụi tung, cây, rừng, sông, núi, cỏ, hoa, súc vật… cho đến con người đều là vật chớ chẳng phải ông.
A Nan ! Các vật gần xa đó, tuy khác nhau, nhưng đều do tánh thấy thanh tịnh (hiện lượng, đệ nhất sát na) của ông. Các vật loại kia có sai khác mà tánh thấy của ông thì không sai khác. Tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu đó, rõ là chủ thể phân biệt của chính
ông, chứ còn ai nữa ! Nếu tánh thấy là vật, thì ông đã thấy cái thấy của tôi. Nhưng sự thật thì không như vậy. Điều đó chứng minh rằng: tánh thấy không phải vật, mà là chủ thể phân biệt của chính ông. Sự thể quá rõ ràng, sao ông còn nghi ngờ cái chơn tánh của ông
? Chơn tánh của ông, ông không tự nhận, vướng chấp pháp âm của tôi mà cầu thực chứng thì làm sao có được ?
TRỰC CHỈ
Tánh thấy tức là nhãn thức. Nhãn thức là một trong tám thức tâm vương. Tánh thấy thanh tịnh, sáng suốt nhiệm mầu, vì tiếp thu trần cảnh, nó chỉ thu nhận “tánh cảnh” và “hiện lượng” cho nên tự tánh của cái thấy vốn không có tội lỗi gì. Nó là hiện tượng biểu hiện của chơn tâm, nó gần với bản chất thanh tịnh của chơn tâm hơn các hiện tượng khác, nên ví nó như vành trăng thứ hai do mắt nhặm mà thấy, chứ nó không hư ảo, đảo điên như bóng trăng in đáy nước.
Nếu một tánh thấy để đơn cử công dụng phát thức của một căn. Kỳ thật tánh cảnh hiện lượng là đặc tánh chung của nhỉ, tỷ, thiệt, thân, năm thức trước. Năm thức trước hoạt động trong một bối cảnh “tùy duyên”. Chỉ có ý thức đối với sự hoạt động của con người, tương đối nó thường trú túc trực hơn năm thức trước. Nó chỉ không hiện hữu ở năm trường hợp: Vô tưởng thiên, vô tưởng định, diệt tận định, ngủ không chiêm bao và chết ngất.
Sáu thức tác động vào sáu căn, biểu hiện ra thành sự nhận thức của con người. Đối
tượng nhận thức của năm thức trước là “tánh cảnh” nghĩa là những sự vật có bản chất cụ thể, rờ, mó, cầm, nắm được, gọi đó là Vật. Chủ thể nhận thức thì biểu hiện thông qua sáu giác quan (lục căn), nhưng vì không bản chất chỉ có tác dụng thì gọi đó là TÂM. TÂM và VẬT đều là “hiện tượng” biểu hiện phát xuất từ Thể tánh tịnh minh, Như Lai Tàng bản thể:
Không gian cộng thời gian là bản thể Như Lai tàng vậy.
TÁNH THẤY KHÔNG LỚN NHỎ ĐỨT NỐI
CHỈ DO TIỀN TRẦN NGĂN
NGẠI MÀ THÔI
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nếu tánh thấy là tôi, không phải ai khác, khi Như Lai và tôi xem cung điện Tứ Thiên Vương, mặt trời, mặt trăng cùng lúc thấy khắp cõi Ta bà, khi trở về tịnh xá chỉ thấy khu đất già làm, đến trai đường chỉ còn thấy giới hạn của một căn phòng.
Thưa Thế Tôn ! Tánh thấy vốn khắp cùng một cõi, mà nay ở trong nhà chỉ thấy một gian phòng. Vậy tánh thấy lớn rút lại thành nhỏ hay do tường nhà ngăn chặn làm cho đứt đoạn
? Điều đó, tôi chưa hiểu, xin Phật từ bi chỉ dạy !
Phật bảo: A Nan ! Tất cả các hiện tượng xa gần lớn nhỏ trong ngoài của thế gian đều thuộc tiền trần, ông không nên nói tánh thấy có giãn ra hay rút lại. Tánh thấy vốn khắp trùm phổ biến ví như hư không. Đặt cái đồ vuông thì dung tích hư không vuông, để cái vật tròn thì dung lượng khoảng hư không tròn. Nếu muốn hư không, không vuông, không tròn, chỉ cần bỏ đi những cái đồ khí mảnh ấy mà không cần có ý nghĩa phải loại bỏ tướng vuông tròn của hư không. Như lời ông hỏi: Khi vào phòng cái thấy bị rút lại, hay bị vách nhà ngăn đứt ? Nghĩa đó không đúng. Nếu vào phòng nhỏ, cái thấy bị rút lại, vậy khi trông xa phải kéo giãn ra ? Nếu vào nhà bị vách cắt đứt, khi xoi một lỗ nhìn ra cái thấy phải có dấu nối ?
A Nan ! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay lầm mình là vật, bỏ mất bổn tâm, bị vật xoay chuyển cho nên trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu chuyển được vật thì đồng với Như Lai, thân tâm tròn đầy sáng suốt, ngồi ở một chỗ mà đầu mảy không hàm chứa mười phương quốc độ.
TRỰC CHỈ
“Tánh kiến giác minh, Giác tinh minh kiến, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện”. Đó là ý tứ của một đọan kinh sau, Đức Phật dạy về ý nghĩa công dụng của thất đại. Rằng tánh thấy vốn là “giác minh” nó là cái “tinh kiến”, nghĩa là tánh thấy không trải qua “tỷ lượng” và “phi lượng” sai
lầm, mà luôn luôn ở trong phạm vi “hiện lượng”. Nó thanh tịnh bản nhiên, nó khắp cùng pháp giới, đáp ứng yêu cầu tâm tưởng chúng sanh, theo nghiệp của mỗi loài mà biểu hiện. Ví như hư không, tùy đồ vật: Cốc, ly, chum, chóe mà biểu hiện theo hình thể vuông tròn sâu cạn mà thể tánh hư không thanh tịnh bản nhiên, khắp đầy thế giới, không hạn cuộc trong một hình thức khuôn khổ nào.
Chúng sanh dứt sạch mê lầm Ngã Pháp, phản chiếu hồi quang, xoay về Thể tánh tịnh minh, thể nhập Như Lai Tàng vốn có, chuyển vật, làm chủ lấy mình, bấy giờ chợt thấy rằng: Vật tâm bất nhị, chúng sanh Phật không hai. Một là tất cả, tất cả là một. Ngay nơi chỗ ngồi, mỗi đầu mảy lông hàm chứa cõi nước mười phương chư Phật.
TÁNH THẤY VÀ VẬT BỊ THẤY VỐN LÀ TÂM TÁNH BỒ ĐỀ NHIỆM MẦU SÁNG SUỐT
o Không có cái nào là tánh thấy.
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nếu tánh thấy là tâm tánh nhiệm mầu của tôi, hiện ở trước mắt tôi, thì thân tâm tôi là vật gì, mà thân tâm có phân biệt, tánh thấy kia thì không phân biệt được thân tôi ?
Phật bảo: A Nan ! Ông nói tánh thấy ở trước mắt ông không đúng. Nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ Đà, trông khắp suối rừng điện đường, trên thì mặt trời mặt trăng, trước có sông Hằng. Ông hãy đưa tay chỉ trong các tướng kia: Chỗ rậm là rừng, phát ra ánh sáng
là mặt trời, ngăn ngại là vách, mênh mông bãng lãng là hư không, đến cả cỏ cây mảy mún, lớn nhỏ khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì không chỉ ra được. Ông bảo rằng tánh thấy hiện ở trước mắt ông, vậy ông hãy chỉ chính xác, gì là tánh thấy ?
A Nan ! Ông nên suy nghĩ: Nếu hư không là tánh thấy, thì còn cái gì là hư không ? Nếu vật là tánh thấy, còn cái gì là vật ? Ông hãy chín chắn lựa chọn trong muôn vàn hiện tượng, tách tánh thấy nhiệm mầu thanh tịnh ấy ra và chỉ cho tôi xem cụ thể rõ ràng, như các vật mà không lầm lộn ?
A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nay tôi ở giảng đường, trông xa đến sông Hằng… nhìn cao
đến mặt trời, mặt trăng, những cái chỉ được, đều là vật chứ không có cái nào là tánh thấy.
Bạch Thế Tôn ! Lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng Thanh Văn, sơ học chúng tôi, dù cho các Bồ Tát cũng không thể ở nơi hiện tượng vạn pháp chỉ ra cái nào là tánh thấy rời ngoài mọi vật.
Phật dạy: Đúng vậy ! Đúng vậy !
o Tất cả cái nào cũng là tánh thấy.
Phật bảo: A Nan ! Như lời ông nói: Rời tất cả vật, tánh thấy không có. Trong tất cả vật đã chỉ ra được, không có cái nào là tánh thấy. Giờ đây ông cùng tôi ngồi trong rừng Kỳ Đà nầy, ta hãy nhìn xem vườn rừng cho đến mặt trời, mặt trăng, và vô vàn hình tượng, trong đó không có cái thấy để ông chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, cái nào không phải tánh thấy.
Ông A Nan bạch Phật: Rằng, tôi trông khắp rừng Kỳ Đà, tập trung tâm ý, quan sát tư duy, nhưng không tìm ra trong đó cái nào không phải tánh thấy. Vì sao ? Nếu cây không phải tánh thấy, sao thấy được cây ? Cho đến, nếu hư không, không phải tánh thấy làm sao thấy được hư không ? Nhưng nếu hư không là tánh thấy, thì sao lại là hư không. Tôi nay suy nghĩ chín chắn và phát minh trong muôn vàn hiện tượng, không cái nào không là tánh thấy.
Phật bảo: Đúng vậy ! Đúng vậy !
TRỰC CHỈ
Đức Phật đã bao lần mở rộng lòng từ đinh ninh dạy dỗ, vậy mà ông A Nan vẫn còn mơ hồ trong nhận thức về cái tánh thấy: Rằng tánh thấy là tâm tánh hay không là tâm tánh của ông.
Sự mê mờ về tâm tánh chưa lóe tí ánh sáng khả quan nào, thì lại chồng lên một sai lầm mới. Rằng tánh thấy hiện ở trước mắt.
Xét cho cùng, ông A Nan chưa nhận rõ cái tánh thấy cũng có lý của ông. Bởi vì muốn nhận thức tinh tường vấn đề nầy, cần phải được học hiểu kỹ về Kiến Đại:
… “Tánh kiến giác minh, kiến tinh minh giác, thanh tịnh bản nhiên, chú biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện”.
Từ trước đến đây, trong nhận thức của ông A Nan chỉ xoay sở quần quanh qua bóng dáng của pháp trần và ý thức. Ông chỉ nghe và tiếp thu mơ hồ về “kiến tinh minh giác”. Thể tánh của kiến tinh là hiện lượng, phát xuất từ Như Lai tàng. Ông A Nan chưa có khái niệm vững vàng về nguồn tư tưởng sâu thẳm của môn pháp tánh học nầy. Vì vậy, ông chỉ tiếp nhận và đề cao vai trò phân biệt của ý thức minh liễu ở trong ông. Ông chưa hiểu cái ý thức minh liễu mà ông có, cũng chỉ là sản phẩm của Như Lai tàng được biểu hiện thông qua “ngũ câu ý thức”. Ông chưa hiểu vấn đề “tánh kiến giác minh” “kiến tinh minh giác”. Từ đó, nảy ra ý niệm hoang mang ngờ vực: Rằng tánh thấy là tâm tánh, hay không là tâm tánh ? Tánh thấy ở trước mắt, hay không ở trước mắt… ?
Qua cuộc vấn đáp trắc nghiệm giữa hai thầy trò Phật đồng ý với ông A Nan rằng:
“Không có một vật nào là tánh thấy”.
Cuộc trắc nghiệm lại được tiếp theo. Rồi Phật cũng đồng ý và xác định với ông A Nan rằng:
“Không có một vật nào không phải là tánh thấy”.
Sự xác định của đức Phật đối với ông A Nan rõ là mâu thuẫn lạ kỳ, làm cho ông A Nan và đại chúng dao động hoang mang cao độ. Đại chúng vẫn biết rằng: lời nói của Như Lai là chơn chánh là thành thật, không tráo trở, dối gạt phỉnh phờ. (Như Lai thị chơn ngữ giả, thật ngữ giả, bất dị ngữ giả, bất cuống ngữ giả). Và sự thật, Như Lai khai thị cho ông A Nan và đại chúng về chơn lý “bất tức bất ly” của bản thể và hiện tượng. Là hiện tượng, không có hiện tượng nào không ở trong bản thể. Một bản thể, không bản thể nào không biểu hiện thông qua hiện tượng. Hiện tượng không là bản thể, nhưng bỏ hiện tượng tìm bản thể, như bỏ sóng tìm nước không sao có nước. Bản thể không rời hiện
tượng nhưng bảo hiện tượng là bản thể, như trẻ con, ngỡ sóng là nước thì không sao biết được nước là gì. Sóng không là nước, nhưng sóng không rời nước. Nước không là sóng, nhưng nước không rời sóng. Nước và sóng bất tức bất ly”.
Tánh thấy và vật bị thấy vốn là tâm tánh nhiệm mầu cũng “bất tức bất ly” như vậy.
BỒ TÁT VĂN THÙ CẦU PHẬT THƯƠNG XÓT…
PHẬT DẠY: TÁNH THẤY
KHÔNG THỂ ĐẶT
VẤN ĐỀ: “LÀ” HAY “KHÔNG LÀ”
Bấy giờ trong đại chúng, những vị chưa chứng quả vô học, nghe Phật khai thị chân lý thậm thâm ấy, mờ mịt chưa hiểu thế nào, sanh lòng sợ hãi, không giữ được chánh niệm.
Như Lai biết đại chúng tâm ý rối loạn, khởi lòng từ an ủi ông A Nan và đại chúng: Các thiện nam tử ! Bậc vô thượng pháp vương, lời nói chân thật, đúng như tánh chân như, không dối gạt và lừa đảo quẩn quanh như bốn thứ nghị luận bất tử của bọn Mạt Già Lê. Các ông hãy suy nghĩ chín chắn, chớ phụ lòng thương xót của tôi.
Bấy giờ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, thương xót hàng tứ chúng, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh lễ Phật, chấp tay cung kính thưa rằng: Bạch Thế Tôn ! Đại chúng đây không hiểu được chỗ Như Lai phát minh hai nghĩa: “Là” hay “Không là” đối với cái thấy và sắc không. Bạch Thế Tôn ! Nếu những hiện tượng sắc không tiền cảnh là cái thấy thì lẽ ra có chỗ chỉ được. Nếu không là cái thấy thì lẽ ra không thể thấy. Nay đại chúng
không hiểu nghĩa ấy do đâu, nên mới kinh sợ, chớ không phải vì thiện căn nhiều đời ít ỏi. Kính mong Như Lai thương xót phát minh chỉ rõ các vật tượng ấy và cái thấy vốn là thứ gì mà rời ngoài các ý nghĩa: “Là” hay “Không là” như vậy ?
Phật bảo Bồ Tát Văn Thù và đại chúng:
Thập phương Như Lai và các đại Bồ Tát tự trụ tam ma đề, thì cái “thấy” cái “bị thấy” và các nhớ nghĩ, tưởng tượng đều như hoa đốm trong không chẳng có thật. Bản thể của chúng vốn là tâm tánh Bồ Đề nhiệm mầu, thanh tịnh sáng suốt, cho nên trong đó không có vấn đề: “Là” hay “Không là”.
Văn Thù ! Nay tôi hỏi ông: Như ông là Văn Thù, còn có “là Văn Thù” hay “không là Văn
Thù” nữa chăng ?
Bạch Thế Tôn, Văn Thù thưa. Thật vậy, tôi, thật Văn Thù thì không thể có “là Văn Thù”. Vì sao ? Nếu có “Là” hay “Không là” hóa ra đã có hai Văn Thù. Nhưng tôi là Văn Thù không còn có Văn Thù nào khác, cho nên không thể đặt vấn đề “Là” hay “Không là”.
Phật bảo: tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt và các thứ sắc không cũng như vậy. Tất cả là biểu hiện của chân tâm thanh tịnh tròn đầy, là Bồ Đề vô thượng, trong sáng nhiệm mầu. Vì mê lầm, nhận là sắc, không, thấy, nghe, ví như mặt trăng thứ hai. Sự thật mặt trăng vốn không thêm bớt, do mắt lòa mà thấy ra như vậy. Trong đó không thể đặt vấn đề: Cái nào “là” trăng, cái nào “không là” trăng. Các ông phát minh ra cái thấy và trần cảnh bị thấy đều là vọng tưởng. Không thể trong đó, nêu ra cái nào “là” cái nào “không là”. Tất
cả đều là chân tánh nhiệm mầu, một thể sáng suốt thanh tịnh, cho nên vượt ngoài sự “chỉ” hay “không chỉ” được của các ông.
TRỰC CHỈ
Lục căn của con người, ở mặt trái của nó, người ta chỉ biết qua cái công dụng thấy, nghe… tầm thường của nó. Những cái thấy nghe đó, thường làm cho con người đau đầu, nhức óc căng thẳng thần kinh hơn là làm cho con người hưởng được những phút giây thoải mái. Ít có ai phát hiện phía mặt thật của lục căn mình. Mặt thật của lục căn, thiền gia gọi là “bản lai diện mục” của chúng ta.
Bản lai diện mục của con người, vốn trong trắng hiền lành, an nhiên tự tại, chẳng vướng vô minh, không vương triền phược. Từ vật lý đến tâm lý của con người, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới. Vì vậy, không thể đem thứ ý thức thô phù vọng tưởng để phân biệt đúng đâu là cái thấy và đâu không là cái thấy.
Pháp giới tánh hàm dung bất nhị. Như Lai tàng bản thể nhất chân. Một là tất cả. Tất cả là một. Còn lấy cái nào để chỉ cái nào ? Còn gì vô lý bằng khi người ta lấy tay chỉ đây là vàng, kia không là vàng trong toàn thân con sư tử vàng duy nhất.
TÁNH THẤY RỜI TẤT CẢ TƯỚNG, NHƯNG KHÔNG NGOÀI TẤT CẢ PHÁP. GIÁO LÝ NHƠN DUYÊN VẪN CHƯA LÀ ĐỆ NHẤT NGHĨA, THUYẾT TỰ NHIÊN LÀ MỘT NHẬN THỨC SAI LẦM CHƠN LÝ VŨ TRỤ
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Đúng như lời pháp vương dạy: tâm tánh cùng khắp mười phương thế giới, yên lặng thường trú, không có sanh diệt. Song nếu đem lời dạy nầy, so sánh với thuyết của Phạm Chí Sa Tỳ Ca La về “minh đế” và thuyết của bọn ngoại đạo Đầu Khôi về “chân ngã khắp cùng”, khác nhau chỗ nào ?
Hồi ở núi Lăng Già, Thế Tôn dạy cho ông Đại Huệ rằng: Bọn ngoại đạo thường nói “tự
nhiên” còn Phật thì nói “nhân duyên”.
Tôi nay suy nghĩ cái tâm tánh vốn “tự nhiên”, vì nó không phải sanh cũng không diệt. Nó xa rời tất cả điên đảo hư vọng. Tôi nghĩ cái “tự nhiên” nầy khác với thuyết “tự nhiên” của bọn ngoại đạo. Xin Thế Tôn khai thị cho chúng tôi để được tâm tánh sáng suốt, khỏi rơi vào tà kiến.
Phật bảo: A Nan ! Như Lai đã dùng phương tiện chỉ dạy như vậy mà ông còn chưa tỏ
ngộ, lại lầm là “tự nhiên”.
A Nan ! Nếu là “tự nhiên” thì ông thử chứng minh cái gì là “tự thể” của cái “tự nhiên” ấy
? Ông hãy xét kỹ tánh thấy nhiệm mầu lấy cái gì làm tự ? Lấy sáng làm tự hay lấy tối làm tự ? Lấy rỗng không làm tự hay lấy ngăn bít làm tự ?
A Nan ! Nếu lấy sáng làm tự lẽ ra không thấy được tối. Nếu lấy rỗng không làm tự lẽ ra không thấy được ngăn bít. Bởi vì nếu lấy sáng làm tự, thì đến khi tối tánh thấy đã diệt mất đi rồi làm sao thấy được tối… ?
Bạch Thế Tôn ! A Nan thưa, tánh thấy nhiệm mầu nầy, chắc không phải tự nhiên. Nay tôi phát minh tánh thấy do “nhân duyên” sanh. Xin Như Lai dạy cho, tôi phải hiểu thế nào cho hợp với tánh “nhân duyên” của Phật ?
Phật bảo: Ông nói tánh thấy, do “nhân duyên”. Vậy tôi hỏi ông: Tánh thấy đó, nhân sáng mà thấy hay nhân tối mà thấy ? Nhân trống không mà thấy hay nhân ngăn bít mà thấy ? Nếu nhân sáng mà thấy thì lẽ ra không thấy được tối. Nhân tối thì cũng như vậy…
Ông bảo rằng cái thấy do “duyên” cũng không đúng. Duyên sáng mà thấy hay duyên tối mà thấy ? Duyên rỗng không mà thấy hay duyên ngăn bít mà thấy ? Nếu duyên ngăn bít mà thấy, lẽ ra không thấy được rỗng không. Duyên tối… cũng lại như vậy.
A Nan ! Ông nên biết: tánh thấy nhiệm mầu, sáng suốt, không phải “thân” không phải “duyên”, không phải tự nhiên, không phải không tự nhiên, không có cái “phải”, hay “không phải”. Không có cái “là” hay “không là”. Nó “rời” tất cả tướng; nhưng nó không ngoài tất cả pháp. Ông đem các danh tướng hí luận thế gian mà nhận thức phân biệt, chẳng khác lấy tay nắm bắt hư không chỉ thêm nhọc sức.
Bạch Thế Tôn ! A Nan thưa, cái tâm tánh nhiệm mầu, nếu không phải nhân duyên, cớ sao Đức Thế Tôn đã từng dạy các Tỳ-kheo, rằng tánh thấy có bốn duyên: Khoảng không, ánh sáng, tâm và mắt ?
Phật bảo: Đó là tôi nói về các tướng nhân duyên thế gian, không phải đệ nhất nghĩa.
A Nan ! Các người thế gian khi họ nói: “tôi thấy”. Vậy thế nào họ gọi là thấy, thế nào gọi là không thấy ?
A Nan thưa: Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng hoặc đèn mà thấy các sắc tướng, họ gọi đó là thấy. Nếu không có các thứ ánh sáng đó, họ gọi là không thấy.
Phật bảo: Nếu lúc không có ánh sáng mà gọi là không thấy thì lẽ ra lúc đó không thấy tối. Nếu đã thấy tối thì đó chỉ là không sáng, chớ không phải không thấy. Nếu lúc tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy thì lúc sáng không thấy tối cũng nên gọi là không thấy. Vậy thì sáng tối cả hai đều là không thấy !
A Nan ! Thực tế không phải vậy. Tối và sáng tự lấn át nhau, tánh thấy của ông chẳng có lúc tạm không. Do đó, biết rằng tối và sáng đều thấy. Và, khi thấy sáng, tánh thấy không phải sáng. Lúc thấy tối, tánh thấy không phải tối. Lúc thấy không, tánh thấy không phải hư không. Khi thấy bít, tánh thấy không phải tướng bít.
Ông nên biết rằng:
Tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải là tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó còn cự ly đối với tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó chưa là tánh thấy bản thể.
Với tầm vóc sâu xa nhiệm mầu của tâm tánh, ông lại đem những thuyết nhân duyên, tự nhiên, hòa hợp, không hòa hợp mà luận đàm, không sao đến được. Các ông là Thanh Văn hẹp hòi, nông cạn, không nhận được thật tướng thanh tịnh. Nay tôi chỉ dạy, ông khéo suy nghĩ, không được biếng trễ trên đường Bồ Đề !
TRỰC CHỈ
Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng vạn hữu phát xuất từ đâu, thế giới và con người do gì sanh là vấn đề tư tưởng ở vào tầm cỡ trọng đại. Từ thượng cổ hun hút xa xưa, đến nay thế kỷ 20 gần hết mà vẫn chưa có được sự nhất trí nào của con người, dù là người cùng chủng tộc, ngữ ngôn trong một nước !
Đức Phật ra đời này đã tròn 25 thế kỷ. Trước Phật đã có, cùng thời với Phật cũng có nhiều dị phái triết gia, họ cũng đề ra chủ thuyết, cắt nghĩa vấn đề thế giới và con người, tức là vấn đề vũ trụ nhân sanh quan của họ. Chủ thuyết thì nhiều; mỗi mỗi giải thích trình bày theo sở kiến mình, thật đa dạng và phong phú. Có điều không mấy lạc quan là khi đúc kết các dòng tư tưởng, người ta thấy không có chủ thuyết nào giống với chủ thuyết nào. Nhóm phạm chí Sa tì Ca La chủ trương “minh đế”. Phái ngoại đạo Đầu Khôi chủ trương “thần ngã”. Phái ngoại đạo tự nhiên đề xướng thuyết “tự nhiên”. Phái Đại Phạm tôn sùng Phạm Thiên. Sau này có các phái chủ trương “Thiên chủ tạo vật”, đấng “A La”, “Huyền thiên thượng đế”…
Với Thế Tôn ta, Đức Phật không chủ trương có một đấng “siêu nhiên”, “siêu nhân” như
vậy.
Đứng bên mặt hiện tượng vạn hữu, Phật dạy.
Vạn Pháp Nhơn Duyên Sanh.
Đứng bên mặt bản thể chơn như, Phật dạy:
Phi nhơn duyên; Phi tự nhiên. Phi hòa; Phi hợp. Pháp nhĩ như thị.
Kế thừa truyền thống đó, 600 năm, sau Phật Niết Bàn, thuyết Chơn như duyên khởi
được dựng lên, Mã Minh Bồ Tát đường hoàng tuyên bố…
“Nhất thiết chư pháp, tùng bản dĩ lai, ly văn tự tướng, ly ngôn thuyết tướng ly tâm duyên tướng, tất cánh bình đẳng, bất khả phá hoại, duy thị nhất tâm, cố danh chân như”…
DO NHẬN THỨC SAI LẦM KHIẾN CHO
CON NGƯỜI BỎ MẤT BẢN TÂM
THANH TỊNH BẢN GIÁC THƯỜNG TRÚ CỦA MÌNH
Ông A Nan bạch Phật: Thế Tôn đã vì chúng tôi, chỉ dạy về nhân duyên, tự nhiên, hòa hợp và không hòa hợp. Tâm chúng tôi còn chưa tỏ ngộ. Nay nghe Phật dạy: Tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản thể… làm cho chúng tôi càng thêm mờ mịt. Cúi xin Phật thương xót bố thí tuệ nhãn, khai thị cho chúng tôi về bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trú.
Phật bảo: A Nan ! Ông được năng khiếu nhớ lâu, nhưng cái đó chỉ giúp cho ông phần học rộng. Đối với pháp Chỉ Quán thẩm sâu mầu nhiệm ông còn chưa rõ. Tôi sẽ vì ông chỉ bày và cũng khiến cho những người hữu lậu tương lai được quả Bồ Đề.
A Nan ! Tất cả chúng sanh trong thế gian, luân hồi sanh tử do hai thứ nhận thức sai lầm kết thành nguyên nhơn lưu chuyển.
Một, nhận thức sai lầm biệt nghiệp. Ví như người bệnh mắt hóa lòa, ban đêm trông ngọn đèn thấy có vầng tròn năm màu. Cái vầng tròn năm màu vốn không thực có đối với người không bị bệnh lòa. Nhưngg nó không phải không có đối với người mắc bệnh. Vầng tròn ấy không phải màu sắc của cái thấy hay của đèn. Nó không tự sanh, cũng không phải do đèn hay do mắt đã sanh. Nguyên nhơn của vầng tròn, do mắt bệnh hóa lòa. Cái vầng tròn và cái thấy vầng tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì tánh thấy đó không bệnh. Do đó, không nên nói cái vầng tròn năm màu là của đèn hay của cái thấy. Cũng không được nói: Rằng không phải của đèn hay không phải của cái thấy. Lại ví như vành trăng thứ hai. Nó không phải trăng mà cũng không phải bóng. Vành trăng đó vốn không có, nên không thể gán cho nó “phải” hay là “không phải” mặt trăng. Mặt trăng thứ hai có là do động tác của ngón tay ấn mắt. Người trí không nên bảo: Đó là hình trăng, hay không phải hình trăng. Đó là cái thấy hay ra ngoài cái thấy. Vầng tròn năm màu cũng
vậy. Nó do bệnh lòa thành có. Gọi nó là của đèn hay của cái thấy đều là sai. Ráng sức đấu tranh, rằng không phải của đèn hay không phải của cái thấy càng thêm hí luận.
Hai, nhận thức sai lầm cộng nghiệp. A Nan ! Cõi Diêm phù đề, trừ nước biển bao la, trong đó đất bằng có 3.000 châu. Ở giữa có một châu lớn. Chung quanh có đến 2.300 nước. Châu nhỏ chỉ có hai nước thôi. Những chúng sanh trong một nước gặp phải năm thời tiết không thuận hòa thì cùng thấy những hiện tượng bất thường: Hoặc thấy sao phướng, sao sa, và chỉ có những người trong nước đó thấy, chúng sanh trong nước kế cận thì không thấy và cũng không nghe.
A Nan ! Nay tôi đem hai việc đó kết hợp so sánh làm thí dụ để chỉ cho ông.
A Nan ! Cái nhận thức sai lầm biệt nghiệp của chúng sanh, ví như người bệnh mắt, trông thấy ngọn đèn hiện ra vầng tròn năm màu, tưởng là cảnh thật trước mắt. Sự thật vầng tròn do bệnh lòa của người đau mắt tạo thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải sắc tướng tạo ra. Cái thấy, thấy được bệnh lòa cái thấy đó vốn không có bệnh. Cũng vậy, hiện nay ông dùng con mắt xem thấy núi sông cảnh giới và các chúng sanh đều do bệnh lòa vô thỉ tạo thành. Cái thấy và cái bị thấy không thể tách rời ra. Do vô minh, chúng sanh vọng
kiến thấy tiền cảnh in tuồng là “vật đối lập” với mình. Sự nhận thức sai lầm đó do bệnh lòa NĂNG KIẾN, SỞ KIẾN của tâm tánh giác minh thanh tịnh. Chừng nào nhận thức rằng: Cái thấy, thấy vầng tròn năm màu là bệnh, thì sự nhận thức đó vốn không có bệnh. Đó là ý nghĩa thẩm sâu: “Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập”. Bản chất của tánh thấy là: tánh kiến giác minh, kiến tinh minh giác, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới.
A Nan ! Do nhận thức sai lầm nghiệp riêng, người bệnh lòa thấy ngọn đèn có vầng tròn năm màu. Do nhận thức sai lầm nghiệp chung, chúng sanh cùng thấy những hiện tượng bất thường. Do nhận thức sai lầm vô thỉ, tất cả chúng sanh nhận lấy các bệnh: Tham, sân, si… Ta, người, thương ghét… để rồi nhận lấy sanh tử khổ đau của các nguyên nhân đau khổ đó. Nếu xa rời các bệnh duyên “năng”, “sở” thì chúng sanh mười phương đồng chung bản thể cùng một tâm tánh nhiệm mầu. Tất cả đều viên mãn tánh Bồ Đề trong bản giác thường trú của mình.
TRỰC CHỈ
Đoạn kinh nầy Phật nêu ra hai thứ vọng kiến: Biệt nghiệp và Đồng Phận. Biệt nghiệp vọng kiến là vọng kiến của cá nhân. Đồng phận vọng kiến là vọng kiến của xã hội.
Sự thật của biệt nghiệp vọng kiến vốn không có cái vầng tròn năm màu quanh một ngọn
đèn.
Sự thật của đồng phận vọng kiến là những hiện tượng bất thường… chỉ có với những người cùng ở trong một nước gặp phải năm thời tiết bất hòa.
Cá nhân vọng kiến chỉ vì bệnh lòa mà vầng tròn năm màu sanh ra.
Xã hội vọng kiến chỉ do cùng ở chung một nước mà những hiện tượng bất thường… được thấy.
Người không bệnh mắt, vầng tròn không có trước đèn.
Chúng sanh nước kế cận không chung quốc độ nên những hiện tượng bất thường không có.
Như Lai Thế Tôn, vì không vọng kiến vô thỉ, nên thấy “pháp giới bất nhị”. Như Lai tàng thanh tịnh “nhất châu”.
Chúng sanh bị nhận thức sai lầm vô thỉ, cái thấy trở thành các bệnh: Ngã, nhân, bỉ, thử, thủ, xả thân, sơ… Đó là trần lao, là vô minh bụi bặm. Chúng che lấp mất cái bản thể vốn thanh tịnh của Chơn tâm thường trú.
Ngày nào chúng sanh xa rời vọng kiến sẽ nhận thức rõ pháp giới nhất chân. Chúng sanh trong mười phương đồng một tâm tánh nhiệm mầu. Hiện tượng vạn hữu chỉ là “vật trang trí” từ thường trú chơn tâm biểu hiện.
Do vậy, Như Lai nói: tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản
thể. Tánh thấy đó còn cự ly với tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó chưa là tánh thấy bản thể
vốn thanh tịnh bản nhiên…
Lời dạy thậm thâm của Phật, nhưng thiết tưởng không có gì vượt quá tâm thiền định tư
duy của người hành giả đệ tử Như Lai.
TÁNH THẤY NGOÀI HAI NGHĨA:
HÒA HỢP VÀ KHÔNG HÒA HỢP
Phật bảo: A Nan ! Dù ông đã ngộ tâm tánh bản giác nhiệm mầu sáng suốt, không phải nhân duyên, không phải tự nhiên, nhưng ông còn chưa rõ tâm tánh sanh ra do hòa hợp hay không hòa hợp.
A Nan ! Ông nghĩ kỹ xem, tánh thấy nhiệm mầu thanh tịnh của ông nó hòa với ánh sáng hay hòa với tối ? Hòa với thông hay hòa với ngăn bít ? Nếu hòa với sáng, hiện nay ông thấy sáng, tánh thấy hòa chỗ nào: Tánh thấy và tướng sáng có thể nhận được, còn cái hình trạng “hòa” ra sao ? Nếu tướng sáng ngoài tánh thấy, làm sao thấy được sáng ? Nếu
tướng sáng là tánh thấy, hóa ra thấy được tánh thấy, hóa ra thấy được tánh thấy, còn gì vô lý bằng ? Với tướng tối, tướng thông và tướng bít cũng vậy.
Lại nữa, A Nan ! Hiện nay tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt của ông, nó hợp với sáng hay hợp với tối ? Hợp với thông hay hợp với bít ? Nếu hợp với sáng, đến khi tối tướng sáng mất đi rồi, tánh thấy không còn hợp được với tối, làm sao thấy được tối ? Nếu không hợp với tối mà thấy được tối, khi hợp với sáng lẽ ra không thấy được sáng ! Đã không thấy được sáng, làm sao hợp với sáng và biết được sáng không phải là tối ? Với tướng thông, tướng bít cũng vậy.
A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nay tôi lại nghĩ: Tánh thấy nhiệm mầu đối với trần cảnh và các tưởng niệm nhớ nghĩ không hòa hợp chăng ?
Phật bảo: Nay ông lại nghĩ: rằng tánh thấy không hòa hợp với sáng hay không hòa hợp với tối ? Không hòa với thông hay không hòa với bít ? Nếu không hòa với sáng thì giữa tướng sáng và tánh thấy phải có lằn ranh. Ông hãy xét kỹ: Chỗ nào là tướng sáng, chỗ nào là tánh thấy ? Chỗ nào là ranh giới giữa hai thứ kia ? A Nan ! Nếu trong tướng sáng không có tánh thấy, tướng sáng và tánh thấy không đến nhau, tất nhiên tánh thấy sẽ tối, tướng thông và tướng bít cũng vậy.
TRỰC CHỈ
Tánh thấy là nhân duyên sanh hay tự nhiên sanh đã được Phật hướng dẫn quá rõ ràng. Nêu hai vấn đề: Biệt nghiệp vọng kiến và đồng phận vọng kiến ở đoạn trước, cũng nhằm chỉ rõ tánh chất sai hại của tánh thấy, khi tánh thấy bị nhận thức sai lầm.
… “Tánh kiến giác minh, kiến tinh minh giác, thanh tịnh bản nhiên chu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện”. Nhận rõ tính chất thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới của tánh thấy thì những vấn đề: nhân duyên, tự nhiên hay phi nhân duyên, phi tự nhiên; hòa, hợp hay phi hòa hợp tất cả đều trở thành hí luận !
BỐN KHOA BẢY ĐẠI VỐN LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG
A Nan ! Ông còn chưa rõ, tất cả tướng phù trần hư huyễn đều là vật huyễn sanh huyễn diệt trong bản thể Như Lai tàng. Các huyễn vọng gọi là tướng, tánh thực của tướng là thể giác minh mầu nhiệm (Diệu giác minh thể). Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, nhân duyên hòa hợp vọng gọi là sanh, nhân duyên chi ly vọng gọi rằng diệt. Chúng sanh không biết sự sanh diệt đi lại, chỉ là sự vận hành biến dịch mầu nhiệm của Như Lai tàng. Sự vật hiện tượng luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau. Trong Như Lai tàng tìm cho ra tử sanh mê ngộ đến đi, không thể được.
NĂM ẤM LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN
TỪ NHƯ LAI TÀNG
1. Sắc ấm:
A Nan ! Sao gọi năm ấm là tánh chân như mầu nhiệm biểu hiện của Như Lai tàng ?
A Nan ! Ví như có người dùng mắt trong sáng nhìn hư không thanh tịnh, chỉ thấy hư không trong suốt không có gì khác. Mắt người kia bỗng dưng đờ đẫn mỏi mệt, trông hư không thấy hoa đốm lăng xăng, các tướng huyễn hư rối loạn. Sắc ấm cũng như vậy.
A Nan ! Các hoa đốm không phải từ hư không đến, không phải từ con mắt ra. Nếu từ hư không đến, hư không chẳng còn là hư không nữa. Nếu tứ mắt ra, ắt phải có lúc trở vào. Nếu vậy, khi ra thành hoa đốm làm mờ loạn hư không, lúc vào tại sao không thấy con mắt ?
Sắc ấm là hư vọng không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.
2. Thọ ấm
A Nan ! Ví như có người tứ chi an ổn, cơ thể điều hòa, không bị vui buồn tác động, tịch
tĩnh như quên mình. Bỗng nhiên người kia đưa hai tay lên không xoa nhau, sanh cảm xúc: nóng, lạnh, trơn, rít… Thọ ấm cũng như vậy.
A Nan ! Những cảm xúc hư vọng kia, không phải từ hư không đến. Không phải từ bàn tay ra. Nếu từ hư không đến sanh cảm xúc nơi bàn tay, sao không sanh cảm xúc ở thân thể ? Không lẽ hư không biết lựa chỗ để sanh cảm xúc ?
Thọ ấm là hư vọng không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.
3. Tưởng ấm
A Nan ! Ví như nghe nói quả mơ chua, miệng người kia tươm nước bọt. Nghĩ đứng chỗ
chênh vênh, lòng bàn chân cảm nghe ghê rợn. Tưởng ấm cũng như vậy.
A Nan ! “Mơ chua”, vốn là một âm thanh, nó không phải từ quả mơ, không phải từ miệng vào. Nếu do mơ ra, quả mơ tự nói, sao phải đợi người ta nói. Nếu do miệng vào, lẽ ra miệng tự nghe, cần chi đến lỗ tai ! Nếu riêng lỗ tai nghe, sao nước bọt không chảy lỗ tai lại tươm ra miệng ? Nghĩ đứng chỗ chênh vênh cũng vậy.
Tưởng ấm là hư vọng, không phải nhân duyên không phải tự nhiên.
4. Hành ấm
A Nan ! Ví như dòng nước dốc cuồn cuộn tương tục tuôn tháo. Dòng nước không nhân
hư không sanh, không nhân nước có. Nó không phải tánh nước nhưng không ngoài hư không và nước. A Nan ! Nếu nhân hư không sanh, mười phương hư không vô tận, nước vô tận, thế gian này chìm đắm cả rồi sao ? Nếu nhân nước có, dòng nước dốc không là nước sữa. Bởi vì, ai cũng có thể chỉ tướng của nước và dòng nước khác nhau.
Hành ấm là hư vọng, không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.
5. Thức ấm
A Nan ! Ví như có người lấy cái độc bình to bịt miệng, trong có đựng đầy hư không, đi
xa ngoài nghìn dặm, tặng cho một nước khác. Hư không đó, chẳng phải đến từ bên nước kia, cũng không phải đưa vào nước bên nầy. Vì, nước được tặng, hư không chẳng dôi thêm ra. Nước đem cho không vì vậy, hư không vơi bớt.
Thức ấm là hư vọng, không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.
TRỰC CHỈ
Bốn khoa bảy đại chỉ là hiện tượng trong Như Lai tàng. Như Lai tàng là bản thể của tất cả chủng tử của hiện tượng vạn hữu.
Vấn đề “Hiện tượng vạn hữu do gì sanh”, cho đến thế kỷ 20 này vẫn còn là một vấn đề chưa ngã ngũ. Một vấn đề mà loài người sẽ nói mãi, có lẽ không bao giờ có sự nhất trí với nhau.
Bảo rằng hiện tượng vạn hữu do “đấng tạo vật sanh”, ở vào thời đại văn minh nầy, người ta cho đó là quan niệm ngây thơ ấu trĩ. Bảo rằng do “tự nhiên sanh” đó là một thứ tri
kiến của người không tri kiến tí nào. Bởi vì trước mắt mọi người, không có cái gì “tự
nhiên” cả.
Với nền giáo lý Phật, trong những năm dài thuyết giáo, Phật thường dạy cho các đệ tử:
rằng “vạn pháp do nhân duyên sanh”… Cái chân lý đó, càng ngày càng rạng rỡ. Thế kỷ
20 nầy, loài người tiến đến đỉnh cao của trí tuệ, của khoa học văn minh người ta đã chứng minh được rằng một nguyên tử, hạt cơ bản của nguyên tử cũng chưa phải là một đơn vị “tự nhiên” mà nó còn kết hợp bởi những tính… và chất… mà người ta chưa tìm ra ngôn từ tương xứng để xưng gọi. Sự gặp gỡ đó, ta có thể tự hào và kết luận rằng: giáo lý “nhân duyên”…. Của Phật giáo là niềm vui hãnh diện của những người đệ tử có lòng tín mộ tôn thờ Đức Phật làm vị “Bổn sư” mình.
Vậy mà ở kinh Thủ Lăng Nghiêm nầy. Đức Phật thẳng thắn nói với ông A Nan: rằng giáo lý “nhơn duyên” mà Như Lai nói chưa phải thứ giáo lý “Liễu nghĩa”. Quả là một tiếng sấm lưng trời ! Nói “đấng tạo vật” sanh, bị Phật rầy; nói “thần ngã” sanh, bị Phật trách; nói “Phạm Thiên” sanh, bị Phật chê; nói “tự nhiên” sanh, bị Phật bác; nói “đấng A La” sanh, Phật không chịu; nói “hòa hợp” sanh, bị Phật nạn,; nhớ lời Phật dạy, nói “nhân duyên” sanh, nay cũng không xong ! Vậy thì:
Ai ? Cái gì sanh vũ trụ vạn hữu ?
Người học Phật cần tư duy, phải tư duy sâu sắc, nhà Phật gọi là “tham thiền”. Người ta thường thắc mắc, khi tham thiền phải tham những gì ? Thì đây chính là “thoại đầu” là một đề tài lớn để cho người đệ tử Phật “tham” và “tọa”:
“Vũ trụ vạn hữu do gì sanh ?”
Tham cho đến khi trí tuệ bừng sáng, tháo gỡ hoàn toàn cái gút thắt của vấn đề, chừng đó, hành giả chợt thấy:
“Bát nhã hoa khai vạn pháp, tức tâm, tức Phật” “Bồ đề quả thục Nhất chân phi sắc phi không”.
HÁN BỘ HẾT QUYỂN HAI
SÁU NHẬP LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG
1. Nhãn nhập
A Nan: Vì sao bản tánh của sáu nhập vốn là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng ?
A Nan ! Con mắt khi ngó chăm chú… sanh ra sự mỏi mệt. Tánh thấy và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần sáng và tối phát sanh tánh thấy bên trong, thu nhập các trần tướng gọi đó là tánh thấy. Tánh thấy rời hai trần sáng và tối không có tự thể. A Nan, ông nên biết, tánh thấy không phải từ sáng hay tối mà đến, không phải từ mắt ra, không phải từ hư không sanh. Nếu từ sáng đến thì lúc tối nó đã theo sáng diệt mất đi rồi, lẽ ra không thấy được tối. Nếu từ tối đến, lúc sáng nó đã theo tối diệt mất đi rồi, lẽ ra không thấy sáng. Nếu do mắt sanh, không cần có sáng tối thời mắt chẳng thấy được gì, đồng như không có thấy. Nếu do hư không ra thì lúc ngó ra thấy các trần tướng, khi xoay vào ắt phải thấy mắt và mặt. Và nếu thật vậy, thì hư không tự thấy nào có tương quan gì với sự thu nạp của ông ? Vì vậy, biết rằng nhãn nhập là hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
2.Nhĩ nhập
A Nan ! Ví như có người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai. Do tai mỏi mệt hóa ra có
nghe. Tánh nghe và sự mệt mỏi đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần động và tĩnh sanh tánh nghe bên trong, thu nạp các trần tướng gọi đó là tánh nghe. Tánh nghe rời hai trần động và tĩnh không có tự thể. A Nan ! Ông nên biết, tánh nghe đó không phải từ động tĩnh đến, không phải từ tai ra, cũng không phải do hư không có. Vì vậy biết rằng nhĩ nhập là hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
3. Tỷ nhập
A Nan ! Nếu bịt hai lỗ mũi, bịt lâu thành mỏi mệt, trong lỗ mũi có cái xúc lành lạnh.
Nhơn xúc đó phân biệt được thông và nghẹt, rỗng đặc cho đến các mùi thơm thối… Tánh ngửi và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai vọng trần, thông và nghẹt phát ra tánh ngửi ở trong, thu nạp các trần tướng gọi đó là tánh ngửi. Tánh ngửi rời hai trần thông và nghẹt không tự thể. Tánh ngửi không phải từ thông và nghẹt mà đến, không phải từ lỗ mũi ra cũng không phải do hư không sanh. Vì vậy biết rằng tỷ nhập là hư vọng, vốn không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
4. Thiệt nhập
A Nan ! Ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sanh mỏi mệt, nếu người đó có
bệnh thì có vị đắng, người không bệnh thì có chút vị ngọt. Do những cảm xúc ngọt đắng, mà bày tỏ tánh nếm, khi không động thường có tánh nhạt. Tánh nếm và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần nhạt và ngọt phát sanh tánh nếm ở trong, thu nạp các trần tướng gọi đó là tánh biết nếm. Tánh biết nếm rời những trần: ngọt nhạt, đắng cáy… Không có tự thể. A Nan ! Sự biết ngọt biết nhạt không phải từ ngọt nhạt đến, không phải từ lưỡi ra cũng không phải do hư không sanh. Vì vậy biết rằng thiệt nhập là hư vọng vốn không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
5. Thân nhập
A Nan ! Ví như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay nóng. Nếu lực bên lạnh nhiều
hơn thì bên nóng trở thành lạnh. Nếu lực bên nóng nhiều hơn thì bên lạnh hóa ra nóng. Do sự cảm nhận trong lúc hợp mà nhận biết lúc rời ra. Giữa thế tương quan đó, phát ra mỏi mệt và cảm xúc. Tánh cảm xúc và mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai vọng trần hợp và ly phát ra sự hiểu biệt ở trong, thu nạp các trần tướng, đó gọi là tánh biết xúc. Tánh biết xúc rời hai trần ly và hợp, trái và thuận không có tự thể. A Nan ! Tánh biết xúc không phải từ hợp ly đến, không phải từ trái thuận ra cũng không phải do hư không sanh. Vì vậy biết rằng thân nhập vốn hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
6. Ý nhập
A Nan ! Ví như có người mệt nhọc thì ngủ, ngủ chán thức dậy. Nhận biết trần cảnh, thì
nhớ, lúc hết nhớ gọi là quên. Các sự việc ấy sanh khởi, tồn tại thay đổi rồi mất đi. Cứ theo cái vòng lẩn quẩn mà hấp thụ không lộn lạo, không chồng chất rối loạn, gọi đó là “ý tri căn”. Ý tri căn và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần sanh diệt, nhóm tánh biết ở trong, thu nạp pháp trần, dòng thấy nghe chảy ngược mà không chỗ đến, gọi đó là sự hiểu biết (tức là ý tri căn hay ý nhập). Tánh hiểu biết này rời hai trần tướng: Thức, ngủ, sanh diệt nó không có tự thể. A Nan ! Ý căn hay sự hiểu biết đó, không phải từ thức, ngủ đến, không do sanh diệt có, không phải từ ý căn phát ra cũng không phải do hư không sanh. Nếu từ thức đến lúc ngủ nó đã diệt theo thức mất đi rồi còn lấy gì làm ngủ. Nếu cho rằng khi sanh mới có hiểu biết, thì lúc diệt nó đã không còn, làm sao biết được diệt. Nếu do diệt có, lúc sanh không
còn diệt thì lấy gì mà biết là sanh. Nếu do hư không sanh thì hư không tự biết nào có dính dáng gì chỗ thu nạp của ông ? Vì vậy, biết rằng ý nhập là hư vọng vốn không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
MƯỜI HAI XỨ LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG
1. Sắc và kiến (Sắc trần và tánh thấy)
A Nan ! Vì sao 12 xứ là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng ?
A Nan ! Ông hãy xem rừng Kỳ Đà, ao khe cây cảnh, tất cả hiện tượng kia. Ông nghĩ thế nào ? Sắc tướng sanh tánh thấy hay tánh thấy sanh sắc tướng
?
A Nan ! Nếu tánh thấy sanh sắc tướng thì lúc trông thấy hư không, không có sắc tướng, tánh thấy đã mất rồi, còn lấy gì để nhận biết được tướng hư không ? Nếu sắc tướng sanh tánh thấy, vậy khi thấy hư không, không có sắc tướng thì lấy gì để biết được hư không và sắc tướng ? Với hư không cũng như vậy.
2. Thanh và thinh (thanh trần và tánh nghe)
A Nan ! Ông nghe trong trai đường ở rừng Kỳ Đà nầy, dọn đồ ăn xong thì đánh trống, lúc họp chúng đánh chuông. Tiếng chuông trống lần lượt nối nhau.
A Nan ! Ông nghĩ thế nào ? Tiếng đến chỗ nghe hay tánh nghe đến chỗ
tiếng ?
A Nan ! Nếu tiếng đến chỗ tánh nghe, vậy khi tiếng đến chỗ ông A Nan, khiến cho ông A Nan được nghe, thì ông Mục Kiền Liên, ông Ca Diếp v.v… lẽ ra không thể đồng nghe cùng một lúc. Ví như khi tôi khất thực ở thành Thất La Phiệt thì ở rừng Kỳ Đà nầy có cả 1250 vị sa môn, khi nghe tiếng chuông, đồng đến chỗ thọ trai một lượt. Nếu như tánh nghe của ông đến bên tiếng thì lúc ông nghe tiếng trống, có tiếng chuông lẽ ra ông
không thể nghe được. Cũng như khi tôi đã về rừng Kỳ Đà thì không thể có mặt ở thành Thất La Phiệt nữa. Sự thật, không những ông nghe tiếng trống tiếng chuông mà ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều tiếng khác cùng một lúc. Còn nếu trống và tánh nghe không đến nhau thì không có gì để gọi là nghe cả. Vậy nên biết rằng: tánh nghe và tiếng cả hai đều là hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
3. Hương và khứu (Hương trần và tánh ngửi)
A Nan ! Ông hãy ngửi hương chiên đàn trong lư đầy, hương nầy nếu đốt một lạng thì cả thành Thất La Phiệt đều được ngửi được mùi thơm. Ông nghĩ thế nào ? Mùi thơm sanh do gỗ chiên đàn ? Do lỗ mũi ? Hay do hư không ? Nếu do lỗ mũi sanh thì nó từ lỗ mũi ra. Nhưng lỗ mũi không phải chiên đàn thì sao lại có được mùi thơm chiên đàn ? Nếu từ hư không sanh, tánh hư không thường nhiên thì mùi thơm cũng phải thường nhiên, cần chi phải đốt chiên đàn trong lư mùi thơm mới có ?
Nếu mùi thơm từ gỗ chiên đàn sanh, cần gì phải đợi đốt thành khói mới có chất thơm loan tỏa trong thành ? Vì vậy, biết rằng: Hương trần và tánh ngửi không xứ sở, cả hai đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng
không phải tự nhiên.
4. Vị và thường (Vị trần và tánh nếm)
A Nan ! Thường thì ông trì bát khất thực ngày hai lần. Có khi được tô, lạc, đề hồ, là những vị ngon. Ông nghĩ thế nào ? Vì do hư không sanh ? Do lưỡi ? Hay do đồ ăn sanh ?
A Nan ! Nếu vị do lưỡi sanh, trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi làm sao biết được các vị: ngọt, chua và đắng ? Nếu do đồ ăn sanh, đồ ăn thì vô tri giác làm sao biết được vị ? Nếu vị từ hư không sanh, vậy ông hãy nếm xem hư không vị gì ? Vì vậy, biết rằng: Vị trần và tánh biết nếm không có xứ sở, cả hai đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
5. Xúc và thân (Xúc trần và tánh cảm thụ)
A Nan ! Thường buổi sớm mai ông lấy tay xoa đầu. Ông nghĩ thế nào ? Trong sự nhận biết xoa đầu, ông thử phân tích cái nào năng xúc cái nào sở xúc ? Năng xúc ở tay hay ở đầu ? Nếu ở tay, đầu không biết làm sao thành xúc ? Nếu ở đầu, tay vô dụng cũng không gọi là xúc được. Nếu tay lẫn đầu đều biết xúc, vậy một mình ông có hai cái xúc. Thế thì trong ông có cả hai con người ? Vả lại, nếu đầu và tay đồng một cảm xúc, thế thì cả hai cùng một tự thể. Nếu một tự thể thì không sở không năng, cái nghĩa cảm xúc không thành lập được. Nếu là hai thể thì cảm xúc ở phía nào ? Ở bên năng thì không ở bên sở. Ở bên sở, không có bên năng. Không lẽ hư không làm cho ông có xúc ? Vì vậy, biết rằng: Xúc và thân không xứ sở, cảm biết xúc cùng xúc trần đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
6. Pháp và ý (Pháp trần và Ý trần>
A Nan ! Ý căn thường duyên với ba tánh. Thiện, ác và vô ký mà sanh pháp trần. Pháp trần đó tức tâm sanh hay ly tâm sanh ?
A Nan ! Nếu tức tâm sanh pháp trần thì pháp trần không còn trần nữa. Vì nó không là pháp sở duyên của tâm, làm sao thành xứ được ? Bảo rằng ly tâm riêng có chỗ sanh cũng không được. Thử hỏi: Bản tánh của pháp trần có biết hay không biết ? Nếu có biết thì không thể ly tâm. Nếu không biết thì nó ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc, ngoài hợp, ly, nóng, lạnh; ngoài cả hư không. Vậy thì pháp trần ở chỗ nào ? Hiện tại trong sắc không v.v… Không thể chỉ cái gì là pháp trần. Chẳng lẽ trong nhơn gian lại có cái… ngoài hư không ? Nếu không có đối tượng sở duyên thì ý căn do đâu thành lập xứ ? Vì vậy, biết rằng: pháp trần cùng ý căn không có xứ sở, cả hai đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
MƯỜI TÁM GIỚI LÀ HIỆN TƯỢNG
BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG
1. Nhãn thức giới
A Nan ! Vì sao 18 giới là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng ?
A Nan ! Như ông đã biết: Nhãn căn và sắc trần làm duyên sanh nhãn thức. Nhãn thức nhơn nhãn căn sanh, lấy nhãn căn làm giới hay nhơn sắc trần sanh, lấy sắc trần làm giới ?
A Nan ! Nếu bảo rằng nhơn nhãn căn sanh, thử hỏi: Nếu không có sắc và không thì cái thức cũng chẳng dùng vào đâu được. Tánh thấy ngoài hình sắc và hiển sắc ra, không thể biểu hiện. Thế thì dựa vào đâu mà thành lập giới ? Bảo rằng nhơn sắc trần sanh. Vậy lúc không có sắc trần, chỉ có hư không lẽ ra cái thức của ông bị diệt mất đi rồi, làm sao ông biết được hư không ? Bảo rằng: Do nhãn căn và sắc trần chung hợp sanh. Vậy, khi hợp lại thì ở giữa ly. Lúc ly ra thì hai bên hợp. Thể tánh xen lộn giữa cái biết và không biết thì cái gọi là giới không thể thành lập. Vì vậy, biết rằng nhãn căn và sắc trần làm duyên (điều kiện) sanh nhãn thức, cả ba đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
2. Nhĩ thức giới
A Nan ! Như ông đã biết: Nhĩ căn và thanh trần làm duyên sanh nhĩ thức. Nhĩ thức nhơn nhĩ căn sanh, lấy nhĩ căn làm giới hay nhơn thanh trần sanh lấy thanh trần làm giới ?
A Nan ! Nếu nhơn nhĩ căn sanh mà không có hai tướng động và tĩnh thì cái biết của nhĩ căn không thành. Bởi vì chẳng có gì để biết ! Cái biết đã không thì cái gọi là “nhĩ thức” hình mạo ra sao ? Nếu bảo: Nhĩ thức nhơn thanh trần sanh. Vậy thì nhĩ thức vốn nhơn thanh trần mà có, nó chẳng tương quan gì với tánh nghe của lỗ tai. Đã không nghe thì cũng không biết gì là thanh trần và thanh trần ở đâu. Vì vậy, biết rằng: Nhĩ căn thanh trần làm duyên sanh nhĩ thức giới, ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
3. Tỷ thức giới
A Nan ! Như ông đã biết: Tỷ căn và hương trần làm duyên sanh tỷ thức. Tỷ thức nhơn tỷ căn sanh, lấy tỷ căn làm giới hay nhơn hương trần sanh lấy hương trần làm giới ?
A Nan ! Ông nghĩ thế nào về tỷ căn ? Ông lấy cái mũi thịt hình tướng như hai ngón tay dũi xuống hay lấy sự biết ngửi là tỷ căn ? Nếu lấy hình tướng cái mũi thịt thì chưa đúng hẳn vì chất thịt thuộc thân căn. Và cái biết của thân căn là xúc. Đã là thân căn thì không phải tỷ căn. Đã gọi xúc trần thì đó là đối tượng của thân căn, không tương quan đến tỷ căn nữa. Vì vậy, tỷ căn còn không đáng gọi, làm sao thành lập tỷ căn giới ?
Bảo rằng: Tỷ thức nhơn hương trần sanh càng vô lý. Nếu hương trần sanh tỷ thức thì tỷ thức không thể ngửi biết hương trần. Ví như con mắt, không tự thấy con mắt.
Nếu biết hương trần thì không do hương trần sanh. Nếu không biết hương trần thì không là tỷ thức nữa. Do vậy, biết rằng tỷ căn hương trần làm duyên sanh tỷ thức ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng
không phải tự nhiên.
4. Thiệt thức giới
A Nan ! Như ông đã biết: Thiệt căn và vị trần làm duyên sanh thiệt thức. Thiệt thức nhơn thiệt căn sanh, lấy thiệt căn làm giới hay nhơn vị trần sanh, lấy vị trần làm giới ?
A Nan ! Nếu nhơn thiệt căn sanh thì những mía ngọt, mơ chua, ớt cay, hoàng liên đắng đều hóa ra vô vị ? Vậy ông hãy tự liếm lưỡi của ông xem, nó ngọt hay đắng ? Và ông hãy nghiệm xem, lấy cái gì nếm lưỡi để ông biết lưỡi đắng ? Nếu bảo rằng vị trần sanh thiệt thức thì thiệt thức chính là vị trần. Vị trần không thể tự nếm vị trần, làm sao còn biết là có vị hay không có vị ? Bảo rằng thiệt căn và vị trần hòa hợp sanh. Không được. Vì, đã là hòa hợp tất không có tự tánh còn lấy cái gì để thành lập thiệt thức giới ? Vì vậy, biết rằng: Thiệt căn vị trần làm duyên sanh thiệt thức, ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
5. Thân thức giới
A Nan ! Như ông đã biết: Thân căn và xúc trần làm duyên sanh thân thức. Thân thức nhơn thân căn sanh, lấy thân căn làm giới hay nhơn xúc trần sanh, lấy xúc trần làm giới ?
A Nan ! Nếu bảo rằng nhơn thân căn sanh, giả sử không có hai sự kiện hợp ly thì thân căn sẽ không có tác dụng. Bảo rằng nhơn xúc trần sanh. Không ổn. Vì có ai không có thân căn mà biết hợp biết ly ?
A Nan ! Vật thì không xúc không biết. Thân có biết có xúc. Biết thân là do có xúc. Biết xúc do có thân. Đã là xúc thì không phải thân. Đã là thân thì không phải xúc. Thân căn và xúc trần không có xứ sở. Nếu xúc trần hợp nhất với thân căn thì hóa thành tự thể của thân căn rồi. Nếu xúc trần tách rời thân căn, thì chẳng khác hư không và các tướng, không quan hệ gì
nhau. Nội căn ngoại trần đã không thành thì làm sao lập được cái thức ở giữa. Thức đã không lập được thì nội căn ngoại trần bản tánh rỗng không. Ông sẽ dựa vào đâu để mà thành lập thân thức giới ? Vì vậy, biết rằng: Thân căn xúc trần làm duyên sanh thân thức ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
6. Ý thức giới
A Nan ! Như ông đã biết: Ý căn và pháp trần làm duyên sanh ý thức. Ý thức nhơn ý căn sanh, lấy ý căn làm giới hay nhơn pháp trần sanh, lấy pháp trần làm giới.
A Nan ! Nếu bảo rằng ý căn sanh, thì trước hết ông phải có suy nghĩ, từ đó mới phát minh
được cái ý của ông. Dù ý ông đã có, nhưng nếu không có đối tượng pháp trần thì ý căn của ông cũng không thể sanh được. Rời các pháp trần không thể nương vào đâu nhận thức hình mạo ý căn, thì cái ý thức còn đem dùng vào việc gì ?
Lại nữa, ý thức của ông cùng với các thứ tư duy, nghĩ ngợi là đồng hay khác ? Nếu đồng với ý căn thì thức là ý căn, duyên cớ gì phải có ý căn để rồi mới sanh ra ý thức ? Nếu
khác với ý căn, lẽ ra nó sẽ không còn biết được gì ! Nếu không được gì, sao lại bảo nó do ý căn sanh ra ? Nếu có biết thì cần chi phải gợi ý thức và ý căn cho thêm chuyện ? Chỉ có hai tánh đồng hay khác mà còn không ổn định thì làm sao thành lập “giới” của ý thức cho được ?
Nếu bảo rằng nhơn nơi pháp trần sanh, thì các pháp trong thế gian không ngoài năm
châu. Ông hãy xét các pháp: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng rõ ràng chúng là những đối tượng của năm căn, những pháp đó không thuộc phần tiếp thu của ý căn. Nếu bảo rằng ý thức của ông, nương pháp trần. Vậy ông xét kỹ xem cái tướng của pháp trần hình mạo như thế nào ? Nên biết: Rời hẳn các tướng: Sắc, không, động, tĩnh, thông, bít, hợp, ly, sanh, diệt, rốt ráo không thành một pháp nào được cả. Các nguyên nhơn đã không thành thì cái thức do nó sanh ra còn có dáng mạo gì ! Dáng mạo còn không có, làm sao mà lập được cái “giới” của ý thức ? Vậy nên biết rằng: Ý căn pháp trần làm duyên sanh ý thức, cả ba đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.
TRỰC CHỈ
Trông ra hiện tượng vạn hữu ta thấy nghìn sai muôn khác, lớn, nhỏ, thấp, cao… khó mà dùng ngôn từ diễn đạt cho rành rọt. Nhưng tìm hiểu nguyên nhân gần của chúng, ta thấy tất cả đều biểu hiện theo cái thế liên hoàn của ba chân vạc, tác động qua lại giữa Căn Trần và Thức, mà hình thành và tồn tại. Cả cái vũ trụ vạn hữu vô thỉ vô chung vô cùng vô cực nầy, nếu tách rời căn trần thức giữa con người và vạn vật ra, thì chẳng còn có gì để luận bàn: Tâm, vật, thực, giả, có, không.
Càng không thể có cái gọi là “một đấng thiêng liêng” nào ở ngoài có đủ tư cách sáng tạo, sắp xếp vấn đề “vũ trụ nhơn sinh” được.
Căn thì có 6 nên gọi lục căn, Đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn kết hợp bởi tứ đại tinh hoa. Trong mỗi căn có hai bộ phận: Một là căn phù trần. Hai là căn tịnh sắc. Căn tịnh sắc cũng còn gọi là “Thắng nghĩa căn”. Căn này được kết hợp bằng những yếu tố tứ đại tinh hoa nhất đối với thân thể con người. Do vậy, nó là cơ quan có công năng phát sanh nhận thức, làm chỗ nương gá cho thức.
Trần có nghĩa là nhiễm ô. Vì những thứ nầy có thể làm cho căn bị nhiễm ô, ví như những bụi bặm làm ô nhiễm môi trường sống của xã hội loài người. Trần có 6 thứ, gọi là trần. Đó là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Trần mà không có căn thì trần không là trần nữa; ngược lại căn mà không có trần thì căn không còn là căn được.
Thức có 6 nên gọi là lục thức. Đó là: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức
và ý thức. Thức nương căn trần mà phát sanh. Thức mà không có căn trần thì thức không có lý do hiện hữu. Căn trần mà không có thức thì căn trần không biểu hiện được thể dụng của căn trần. Cho nên căn trần thức là một hiện tượng gắn bó mật thiết tác động hữu cơ. Hiện tượng vạn pháp hình thành và tồn tại trong cái thế “duyên sanh” không thể tách rời giữa căn, trần, thức ấy. Vậy mà từ trước đến đây, và chưa phải ngừng ở đoạn kinh nầy, đức Phật quở rầy và nhắc nhở về cái thuyết “nhơn duyên sanh” ấy. Vì sao như vậy ? Vì rằng: Nếu đứng bên tục đế mà nhìn hiện tượng vạn hữu qua cái lý “nhơn duyên sanh” thì hoàn toàn đúng. Không những nó đúng riêng trong nền giáo lý Phật mà nó đúng sự thật của cuộc đời, đúng với quy luật khách quan của hiện tượng vạn hữu.
Tuy nhiên, nếu đứng bên chơn đế mà nhìn, nhìn bằng tri kiến rộng rãi hơn, quán triệt căn nguyên, xuyên suốt bản thể của hiện tượng vạn hữu thì hiện tượng nào cũng là hiện tượng của bản thể; cũng như sóng mòi nào cũng là sóng mòi của thể nước lặng trong. Vì vậy, cho rằng: Sóng là nước, thì đó là cái hiểu biết của những đứa trẻ ấu trĩ ngây thơ.
Bảo rằng: Sóng không phải nước là tri kiến của một em bé khác. Nói rằng: Sóng là hiện tượng “duyên sinh” của nước, ta có thể nói chuyện đạo lý với lứa tuổi 20 nầy.
Khi nào người ta ngắm biển với một nhận thức không băn khoăn với một tri kiến thanh thản hồn nhiên trước cảnh sóng gào gió lộng… thì khỏi nói gì với họ về vấn đề sóng… nước… Vì họ đã biết rõ thể nước phẳng lặng và là H2O. Vì họ đã rõ sóng là “hiện tượng duyên sanh” của nước. Sóng và nước không phải là cái có thể tách rời nhau. Như Lai tàng ở kinh Thủ Lăng Nghiêm nói, ví như cái thể H2O của những đợt sóng kia. Cái vạn hữu duyên sanh, ví như những đợt sóng bởi những cơn gió lộng, bởi những đua thuyền mà tạo nên hiện tượng “duyên sanh” ấy.
Bản thể Như Lai tàng cùng với hiện tượng vạn hữu “bất ly” mà “bất tức” !
BẢY ĐẠI LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN
TỪ NHƯ LAI TÀNG
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Như Lai thường nói về nhơn duyên hòa hợp: Rằng tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều nhơn bốn đại hòa hợp mà phát sanh. Thế nào Như Lai ở đây lại bác bỏ cả hai nghĩa “nhơn duyên” và “tự nhiên”. Tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ lòng thương xót chỉ dạy cho chúng sanh pháp liễu nghĩa trung đạo ra ngoài hí luận.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ông A Nan: Rằng trước đây, ông nhàm chán pháp tiểu thừa của Thanh Văn, Duyên Giác, phát tâm cầu vô thượng Bồ Đề, nên giờ đây tôi hướng dẫn ông về “đệ nhất nghĩa đế”, sao ông lại còn đem những thuyết nhơn duyên vọng tưởng hí luận thế gian mà ràng buộc lấy mình ! Ông dù nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như người nói tên thuốc, đến khi gặp thuốc thật trước mắt mà không phân biệt được. Như Lai gọi
ông là hạng người rất đáng thương xót ! Nay ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông phân tách chỉ bày và cũng để cho những người tu học đại thừa sau nầy thông suốt được thật tướng. Ông A Nan yên lặng kính vâng thánh ý của Phật.
A Nan ! Như ông đã nói: “Bốn đại hòa hợp phát sanh ra các thứ biến hóa trong thế gian”. A Nan ! Nếu tánh của các món đại không hòa hợp thì không thể hòa hợp với các đại khác. Như hư không, không thể hòa hợp với sắc tướng. Nếu tánh của các món đại vốn hòa hợp thì nó hòa đồng với các tướng biến hóa: Thỉ, chung thành tựu cho nhau; sanh diệt nối nhau; diệt sanh, sanh diệt; diệt diệt, sanh sanh như vòng lửa xoay; như nước thành băng, băng lại thành nước, không có đầu mối cũng không có cuối cùng.
1. Địa đại hoàn nguyên
A Nan ! Ông hãy xét cái tánh của địa đại, lớn là đất liền, nhỏ là vi trần, thật vi tế là lân hư trần; do chẻ sắc chất cực vi làm bảy phần mà thành.
Nếu đem lân hư trần chẻ ra thành hư không thì hư không cũng có thể sanh sắc tướng ? Ông hỏi rằng. Do hòa hợp mà sanh các tướng biến hóa ở thế gian, vậy ông hãy xét. Một hạt lân hư trần phải dùng bao nhiêu hư không hòa hợp lại mà thành ? Không lẽ lân hư trần hòa hợp thành lân hư trần ! Lại nữa, lân hư trần chẻ ra thành hư không. Vậy dùng bao nhiêu sắc tướng hòa hợp lại mới thành cả bầu hư không vô cùng cực nầy ? Nhưng nếu sắc tướng hợp thì hợp sắc tướng chứ không thể thành hư không; còn hư không hợp thì hợp hư không, không thể thành sắc tướng. Sắc tướng còn có thể chẻ được, chứ hư không thì làm sao mà hợp được ?
Ông vốn không biết thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng. Sắc là chơn không. Không là chơn sắc. Nó thanh tịnh bản nhiên; khắp cùng pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn dyên, hoặc cho là tự nhiên, đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận
đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.
2. Thủy đại hoàn nguyên
A Nan ! Tánh nước không cố định, khi tuôn chảy khi đứng lặng không chừng. Trong thành Thất La Phiệt, các ông Tiên Ca Tỳ La. Chiên Ca La và các nhà huyễn thuật Bát đầu na v.v… muốn có thứ nước Thái Âm tinh để hòa làm thuốc huyễn thuật. Họ lựa ngày trăng tròn sáng lộng như ban ngày, tay cầm hạt châu Phương Chư hứng lấy nước dưới trăng vàng. Vậy nước ấy từ hạt châu ra ? Từ hư không có ? Hay từ mặt trăng mà đến ?
A Nan ! Nếu nước từ mặt trăng đến, vậy những rừng cây to, bóng cả ở tận những đỉnh núi cao, khi sáng trăng thì tất cả lá cành đều phun ra nước cả ? Bởi lẽ những rừng cây đỉnh núi, gần với trăng hơn là ngọc Phương Chư trong tay người hứng nước ở đồng bằng. Nếu bảo rằng: Nước từ hạt châu ra, thì từ hạt châu phải thường rịn chảy ra nước, cần chi phải đợi có ánh sáng ? Bảo rằng: Nước từ hư không sanh. Hư không thì vô cùng vô cực. Hư không bao trùm vạn vật. Vậy sao cả loài người chưa bị đắm chìm để cùng chết ngộp cho vui trong một lúc ? Thủy, lục, không, hành toàn nước và nước cả hay sao ?
Ông nên nghĩ kỹ: Mặt trăng từ trên không đi qua. Hạt châu do tay người cầm. Cái chén bạc hứng nước do con người tạo. Vậy nước kia từ phương nào đến ? Mặt trăng và hạt châu xa nhau không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ nước kia không do đâu mà tự có ra ?
Ông còn chưa biết, thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Thủy là chơn không. Không là chơn thủy. Nó thanh tịnh bản nhiên, khắp cùng khắp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri theo nghiệp mà
phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực giả.
3. Hỏa đại hoàn nguyên
A Nan ! Hỏa đại không có tự thể. Nó nương gởi ở các duyên. Ông hãy
xem, những nhà trong thành phố, khi người ta muốn có lửa để nấu thức ăn. Tay họ cầm kính dương toại và một nhúm bùi nhùi đưa trước ánh sáng
mặt trời mà lấy lửa.
A Nan ! Phàm gọi là hòa hợp thì như tôi với ông và 1250 vị tỳ kheo hiện hợp thành một chúng. Chúng thì có một, song gạn xét về cội gốc thì mỗi người đều có thân thể đều có danh tự họ hàng của mình. Như ông Xá Lợi Phất thì dòng Bà La Môn. Ông Ưu Lâu Tần Loa thì dòng Ca Diếp. Còn như A Nan ông, thì thuộc dòng họ Cù Đàm.
A Nan ! Nếu lửa đó nhơn hòa hợp mà có, vậy khi người ta cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ kính mà ra ? Do hư không mà có ?
Hay từ mặt trời mà đến ? A Nan ! Nếu lửa từ mặt trời đến, lửa đã đốt được bùi nhùi trong tay của ông thì những rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi ngang qua lẽ ra đều bị cháy cả ! Nếu từ kính ra đốt cháy bùi nhùi, sao cái kính không bị chảy ? Đến như cái tay ông cầm kính còn không thấy nóng thì làm sao kính chảy được ? Còn bảo rằng do bùi nhùi sanh thì cần gì phải có ánh sáng mặt trời và kính trực chiếu vào nhau rồi sau đó lửa mới bén cháy bùi nhùi ?
Ông hãy suy nghĩ cho chín chắn: Kính do tay cầm. Mặt trời thì ở trên không trung. Bùi nhùi do con người tạo. Vậy lửa từ phương nào mà xuất hiện đến ? Mặt trời và kính xa nhau, không phải hòa không phải hợp, không lẽ lửa kia không do đâu mà tự có ra ?
Ông còn chưa biết thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Hỏa là chơn không. Không là chơn hỏa. Nó thanh tịnh bản nhiên, khắp cùng pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri: Một người cầm kính một
chỗ có lửa sanh ra; khắp pháp giới mọi người cầm kính, lửa sẽ phát ra theo yêu cầu của mọi người. Lửa vốn không có chỗ ở, theo nghiệp mà phát
hiện. Thế gian không biết lầm tưởng là nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên, đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn ngữ luận
đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.
4. Phong đại hoàn nguyên
A Nan ! Phong đại không hình thể, khi động khi tĩnh bất thường. Lúc vào trong đại chúng, ông sửa áo, vạt áo tăng già lê của ông động thì người ngồi gần ông có gió nhẹ phát qua làm cho người kia cảm nghe mát mặt. Gió từ vạt áo cà sa ra ? Do hư không phát khởi ? Hay từ mặt người kia sanh ?
A Nan ! Nếu gió phát ra do vạt áo cà sa thì ông đã mặc cả gió trong người, lẽ ra cái áo phải tung ra khỏi thân ông. Còn tôi, tôi đang thuyết pháp trong hội nầy và tôi rũ áo. Vậy ông xem cái áo tôi, gió núp ở chỗ nào ? Không lẽ trong áo tôi lại có chỗ chứa gió ?
Bảo rằng: Gió từ hư không sanh, thì tại sao lúc áo ông không động, không có gió phát ra ? Vả lại, tánh hư không thường còn, lẽ ra gió phải luôn có không lúc nào gián đoạn. Và nếu khi nào hết gió thì hư không phải tiêu diệt ? Gió diệt có thể biết được, chứ hư không diệt thì hình trạng thế nào ? Và nếu có diệt có sanh thì không được gọi là hư không, đã là hư không thì làm sao lại phát sanh gió ? Bảo rằng: Gió sanh do cái mặt của người bị phát thì lẽ ra gió phải phất lại mặt ông. Cớ sao ông sửa áo mà lại phất vào mặt người kia như vậy ?
Ông hãy chín chắn mà tư duy: Sửa áo là do ông. Cái mặt thuộc của người kia. Hư không thì vắng lặng. Vậy gió từ phương nào luồn đến ? Gió khác, hư không khác, không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ gió không do gì mà tự có ?
Ông còn không biết thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Phong là chơn không. Không là chơn phong. Nó thanh tịnh bản nhiên khắp cùng pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng lượng sở tri. Một mình ông động áo thì có một ít gió phát ra. Khắp pháp giới nhiều người cùng cầm quạt mà quạt thì khắp pháp giới sanh ra phong đại. Phong đại khắp cùng nhưng không có chỗ ở nhất định, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên, đều là phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có
thực nghĩa.
5. Không đại hoàn nguyên
A Nan ! Hư không không có hình mạo, nhơn sắc tướng mà hiển bày. Trong thành Thất La Phiệt, chỗ cách sông, người ta dựng nhà ở thì đào giếng để lấy nước dùng. Đào được một thước khối đất thì có một thước khối khoản hư không. Nếu đào sâu 20 thước thì có khoản trống hư không
20 thước. Hư không cạn hay sâu tùy đất đào ra nhiều hay ít. Hư không đó nhơn đất mà ra ? Do đào mà có ? Hay không nhơn gì tự sanh ?
A Nan ! Nếu hư không, không nhơn duyên gì mà tự sanh, tại sao khi chưa đào đất, nơi đó không có hư không mà chỉ thấy đất liền ? Bảo rằng: Nhơn đất ra, thì lẽ ra khi đất được đào phải lấy từng mảng hư không văng ra, và nếu vậy là đào hư không chứ sao gọi là đào đất ? Đã là hư không khi cần chi phải nói đến chuyện đào ? Bảo rằng: Hư không do đào mà có thì đào phải ra hư không, cớ sao lại đào ra đất ? Nếu hư không, không phải do đào mà có, thì đào lẽ ra chỉ có đất, cớ sao đào rồi lại thấy hư không ?
Ông nên chín chắn mà tư duy. Đào là do tay người, tùy phương mà vận chuyển. Đất thì từ đất liền mà dời đi. Hư không đó do đâu mà có ? Đào là cụ thể, bởi sức tác động của con người. Hư không thì rỗng rang không hình mạo, hai yếu tố không tương quan tác dụng gì nhau, không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ hư không, không do đâu mà tự sanh như thế ?
Hư không thể tánh tròn đầy, bất động. Hiện tiền hư không và địa, thủy, hỏa, phong, gọi chung là năm đại thể tánh viên dung, vốn không sanh diệt. Các đại đó đều là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện !
A Nan ! Ông còn mê muội không biết được thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng. Giác là chơn không. Không là chơn giác. Nó thanh tịnh bản nhiên khắp cùng pháp giới tùy chúng sanh tâm, đáp ứng với lượng sở tri: Một giếng trống không, hư không sanh trong một giếng. Mười phương trống không, hư không khắp cả mười phương. Không đại khắp cùng theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên, hoặc
cho là tự nhiên đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thật nghĩa.
6. Kiến đại hoàn nguyên
A Nan ! Kiến đại có giác chiếu mà không liễu tri phân biệt. Nó nhơn các thứ: Sắc, không, mà có. Như hiện nay ông đang ở trong rừng Kỳ Đà, sớm mai thì sáng, chiều hôm thì tối; đêm trăng tỏ thì sáng, lúc trăng mờ thì tối. Những tướng sáng tối do cái thấy mà phân biệt nhận ra. Vậy cái tánh thấy cùng với sáng tối và hư không là đồng một thể hay là khác thể ?
A Nan ! Nếu tánh thấy cùng với sáng tối và hư không đồng một thể thì cái sáng tối luôn luôn tiêu diệt lẫn nhau: có sáng thì không tối; có tối thì không sáng. Nếu tánh thấy đồng một thể với tối thì lúc sáng tánh thấy bị tiêu diệt; ngược lại, nếu tánh thấy đồng một thể với sáng thì khi tối đến tánh thấy cũng bị tiêu diệt. Vậy thì tánh thấy làm sao mà thấy được tối sáng ? Bảo rằng: Sáng và tối khác nhau còn tánh thấy không sanh, không diệt. Nếu vậy, thì không nên nói là đồng một thể, vì nó đã khác đi rồi.
Và nếu tánh thấy đã khác với tối sáng, khác với hư không, vậy ông phân biệt xem tánh thấy hình tướng ra sao ? Ông nên biết: Rời tối sáng và hư không, tánh thấy như lông rùa sừng thỏ, không sao tìm có.
Ông hãy chín chắn mà tư duy: Sáng, do mặt trời. Tối, bởi đêm không trăng. Thông suốt, là hư không. Ngăn bít thuộc đất liền. Còn cái tánh thấy như vậy, nhơn đâu mà có ? Tánh thấy có giác chiếu, hư không thì bất
động, không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ cái tánh thấy không do gì mà tự phát sanh ra ? Nên biết: Thể tánh của kiến đại cùng khắp bất động; vô biên hư không cũng cùng khắp bất động. Địa, thủy, hỏa, phong, gọi chung là “lục đại” thể tánh viên dung cùng khắp bất động, không diệt không sanh. Tất cả đều là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện !
A Nan ! Ông còn mê mờ không nhận thức được: Kiến, văn, giác, tri của ông cùng thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng. Kiến đại vốn là giác minh. Giác minh tinh kiến (tánh thấy vốn thanh tịnh, hiện lượng và trực giác). Nó thanh tịnh bản nhiên, cùng khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri. Kiến đại thấy khắp pháp giới, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc và tánh biết cũng cùng khắp pháp giới nhiệm mầu. Nên biết: Tánh của các đại không có nhất định, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhân duyên hoặc là tự nhiên đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.
7. Thức đại hoàn nguyên
A Nan ! Thức đại không có nguồn gốc, nhơn sáu thức căn trần giả tạm mà phát sinh. Nay ông hãy dùng mắt ngó lướt qua khắp hết thánh chúng trong hội nầy xem. Cái tánh thấy của ông như tấm gương, tiếp thu tất cả hình dáng in vào mà không có mảy may phân biệt (hiện lượng tiếp thu tánh cảnh). Rồi ông hãy dùng cái thức của ông, theo thứ lớp mà chỉ ra. Đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, đây là Mục Kiền Liên, đây là Tu Bồ Đề và kia là Xá Lợi Phất… Cái thức phân biệt của ông sanh từ mắt ? Hay sanh bởi các tướng ? Do hư không ? Hay không do gì mà thức tự có ra ?
A Nan ! Nếu bảo rằng: Thức do mắt sanh. Phỏng sử không có các tướng sắc, không tối, sáng, cái tánh thấy của ông còn có cơ sở để tồn tại được không ? Cái thấy còn không thể có thì còn y cứ vào đâu để có được cái “thức” phân biệt của ông ? Nếu bảo rằng: Thức sanh do các tướng chứ không phải do cái thấy. Thế thì ông lấy gì để thấy được sáng tối ? Sáng tối đã không thấy thì cũng không biết được các tướng sắc không ! Các tướng còn không có thì “cái thức” do đâu tồn tại ! Nếu cho rằng: Thức sanh do hư không, có ngoài cả các tướng và tánh thấy. Nếu quả thật vậy, thì ông không còn biện biệt được gì; vì chẳng có gì để cho ông phân biệt !
Nếu bảo rằng: Thức sanh không có sở nhơn, đột nhiên mà có. Đó là một tri kiến sai lầm. Có ai phân biệt sáng trăng giữa lúc mặt trời đứng bóng ?
Ông hãy chín chắn mà tư duy: Cái tánh thấy gá vào mắt ông. Các tướng thuộc tiền trần. Có cái hình tướng là có. Cái không dáng mạo là không. Còn cái thức như vậy nhơn đâu mà ra ? Cái thức thì năng động. Cái tánh thấy thì lặng lẽ, không phải hòa, không phải hợp. Nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng vậy. Thế thì không lẽ cái thức phân biệt không do đâu mà tự có ?
A Nan ! Ông nên biết: Thức vốn không xứ sở. Các tánh: Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết cũng như vậy. Tánh của kiến đại và thức đại viên mãn trạm nhiên, cùng với địa, thủy,
hỏa, phong, không, gọi chung là thất đại, thể tánh viên dung, không sanh không diệt. Tất cả đều là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện.
A Nan ! Tâm ông nông nổi, không nhận biết các việc: Kiến, văn, giác, tri cũng như thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Tánh của thức minh tri. Giác minh là chơn thức. Diệu giác trạm nhiên, khắp cùng pháp giới, ẩn hiện trong mười phương, không có xứ sở, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên, đều là phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.
TRỰC CHỈ
Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại đều là hiện tượng biểu hiện của Như Lai tàng. Nói cách khác, Như Lai tàng là bản thể của 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới và 7 đại. Đề cập đến bản thể hiện tượng là một vấn đề lớn, một vấn đề mang tính triết học của Phật giáo, nếu ta nhìn Phật giáo qua lăng kính triết học. Nhưng đối với Phật giáo người ta có cho nó là triết học hay không, là triết học điều đó chẳng có giá trị thêm bớt gì. Sự thuyết pháp của Phật nhằm nói lên chân lý khách quan, nói lên cái nguyên ủy
của sự hình thành và sự tồn tại khách quan của vũ trụ vạn hữu. Sự thật như thế nào, Phật nói như thế ấy vậy thôi. Giáo lý của kinh Thủ Lăng Nghiêm, triển khai: Tất cả hiện tượng vạn hữu hình thành từ chất liệu của bốn khoa và bảy đại. Rằng hiện trạng vạn hữu do
ngũ uẩn tổ hợp mà thành. Từ ngũ uẩn lập ra 12 thứ sắc pháp. Từ ngũ uẩn lập ra 8 pháp tâm vương. Từ ngũ uẩn triển khai 51 thứ tâm sở. Từ ngũ uẩn diễn biến ra 24 thứ pháp
bất tương ứng. Từ ngũ uẩn thành lập 95 pháp hữu vi và cũng từ ngũ uẩn mà an lập 6 thứ vô vi pháp. Tất cả ngần ấy thứ đều là hiện tượng của Như Lai tàng, từ chủng tử trong Như Lai tàng duyên khởi biểu hiện ra:
TÀNG có nghĩa là kho tàng. Ví như cái kho chứa tất cả hạt giống của ngũ cốc, ngũ quả.
NHƯ có nghĩa là bất biến.
LAI có nghĩa là tùy duyên.
NHƯ LAI TÀNG ví như cái kho hàm chứa tất cả chủng tử của hiện tượng vạn hữu. Những chủng tử được chứa trong kho tàng nầy, tùy duyên sanh ra rồi cũng tùy duyên hoại diệt. Diệt mà không mất hẳn, diệt để lại sanh. Sanh mà không trường sanh, sanh để rồi lại diệt. Sanh diệt, diệt sanh; sanh sanh, diệt diệt, vô thỉ vô chung, vô cùng vô cực. Sự sanh diệt, diệt sanh đó, thuật ngữ Phật học gọi là: TÙY DUYÊN BẤT BIẾN; BẤT BIẾN TÙY DUYÊN. Sanh diệt, nhưng sanh diệt trong cái vĩnh cửu. Vĩnh cửu, nhưng vĩnh cửu trong quá trình sanh diệt. Ví như những đợt sóng tùy duyên sanh diệt trên mặt nước bất biến của thể nước H2O của biển cả, của ao hồ, sông rạch…
Ta hãy tư duy để có khái niệm về bản thể Như Lai tàng, qua hình đồ được cụ thể hóa như
sau:
NHƯ LAI TÀNG
ÔNG A NAN VÀ ĐẠI CHÚNG TÁN DƯƠNG PHẬT,
PHÁT NGUYỆN VÀ TRÌNH PHẬT NHỮNG ĐIỀU TÂM ĐẮC CỦA MÌNH
Ông A Nan và đại chúng nhờ Phật chỉ dạy rằng phương tiện dẫn dụ, lời lẽ khéo léo nhiệm mầu. Cả thính chúng thân tâm thanh thoát rỗng rang. Mỗi người tự biết chơn tâm mầu nhiệm của mình vốn khắp cùng pháp giới và thấy mười phương hư không như xem cành hoa lá đang cầm trên cây, tất cả sự vật hiện tượng trên thế gian đều là diệu dụng của tâm Bồ Đề nhiệm mầu, sáng suốt của mình biểu hiện. Tỏ ngộ lẽ sống chết của cái thân cha mẹ sanh ra, như sự diệt sanh của những bong bóng giữa đại dương rồi chìm tụ tán ! Chỉ có tâm tánh nhiệm mầu khắp pháp giới mười phương mới thật là tâm tánh bản lai thường trú của chính mình.
Ở trước Phật, ông A Nan thay lời đại chúng, xin được nói lên một bài kệ tán dương Đức
Phật, phát nguyện và trình lên Phật điều tâm đắc của tận đáy lòng:
Cao quí thay ! Thủ Lăng Nghiêm Vương ít có
Là pháp diệu trạm, bất động tổng trì Trừ hết tưởng điên đảo ức kiếp của con Không trải A Tăng Kỳ mà được pháp thân Tôi nguyện từ nay cho đến khi thành Phật Độ chúng sanh như số cát sông Hằng. Đem thâm tâm phụng sự vì trần quốc
Thế mới đủ đáp đền thâm ân Phật. Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho: Đời trược ác tôi thề vào trước
Còn một chúng sanh chưa thành Phật Thì tôi không nhận hưởng Niết Bàn Bạch đấng Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi Tôi hy vọng xét trừ vi tế hoặc
Để sớm lên Vô Thượng Bồ Đề
Tôi sẽ làm Phật sự khắp mười phương
Hư không dù hết, nguyện tôi không cùng.
(HÁN BỘ HẾT QUYỂN 3)










CHƯƠNG THỨ TƯ
PHẬT THUYẾT MINH TÁNH CỦA CÁC
ĐẠI VỐN KHÔNG NGĂN NGẠI GÌ NHAU,
NHẰM KHAI THỊ CHƠN LÝ: SẮC KHÔNG, KHÔNG SẮC
Bấy giờ ông Phú Lâu Na ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy quỳ gối chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
Thế Tôn khéo vì chúng sanh mà diễn bày đệ nhất nghĩa đế. Từ lâu tôi được Thế Tôn khen là thuyết pháp đệ nhất trong hàng người thuyết pháp. Vậy mà nay tôi nghe pháp âm
nhiệm mầu Như Lai vừa dạy chẳng khác nào người điếc cách xa trăm bước lắng nghe tiếng muỗi mòng; hy vọng thấy con muỗi còn không được, nói gì đến chuyện được nghe. Dù Phật dạy rõ ràng, nhưng chưa hiểu rốt ráo, tâm tôi còn mơ hồ nghi hoặc. Còn như trình độ kiến giải của bọn ông A Nan, tuy đã được khai ngộ nhưng tập khí hữu lậu chưa trừ, nghe pháp âm thâm diệu này của Phật lòng còn ngờ vực.
Bạch Thế Tôn ! Nếu tất cả các thứ: 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới và 7 đại trong thế gian đều là hiện tượng biểu hiện phát xuất từ tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai tàng, vậy thì tại sao Như Lai tàng bỗng nhiên lại sanh các tướng hữu vi vô thường vận động, thay đổi trước sau, vô cùng vô cực như thế ?
Bạch Thế Tôn ! Như Lai cũng đã từng nói: Địa, thủy, hỏa, phong, bốn đại bản tánh viên dung, khắp cùng pháp giới, vắng lặng thường trú. Bạch Thế Tôn ! Nếu địa đại cùng khắp thì làm sao dung được thủy đại ?
Nếu thủy đại cùng khắp thì làm sao hỏa đại có điều kiện phát sanh ? Làm sao có thể hiểu được rằng: Thủy đại và hỏa đại đều cùng khắp pháp giới mà không đối kháng hủy diệt nhau ? Bạch Thế Tôn ! Tánh địa đại thì ngăn ngại; tánh hư không là rỗng suốt, làm sao có sự kiện hai đại đồng khắp cùng trong một bầu pháp giới ? Tôi không biết nghĩa ấy thế
nào. Xin Phật rũ lòng từ vén mây mê lầm cho tôi và đại chúng.
PHẬT CHỈ NGUỒN GỐC VỌNG TƯỞNG
CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ông Phú Lâu Na và các đại A La Hán rằng: Nay Như Lai vì đại chúng chỉ bày tánh thắng nghĩa trong thắng nghĩa, khiến cho hàng định tánh Thanh Văn chưa được nhơn không và pháp không, hướng về đại thừa, được pháp tu chân chánh tịch diệt của nhất thừa. Các ông hãy lắng nghe cho kỹ, tôi sẽ vì đại chúng mà nói.
Phật bảo: Phú Lâu Na ! Như ông vừa nói: Đã là bản nhiên thanh tịnh tại sao bỗng nhiên lại sanh ra ấm nhập xứ giới núi sông đất liền sum la vạn tượng ? Ông có nghe Như Lai đã từng dạy: Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu hay không ?
- Bạch Thế Tôn ! Tôi đã nghe, Phú Lâu Na thưa.
- Ý ông hiểu thế nào ? Tánh giác tự minh mà gọi là giác hay tánh giác không minh phải dùng tánh minh để minh tánh giác ?
Bạch Thế Tôn ! Tánh giác tự minh nên gọi là tánh giác diệu minh. Nếu tánh giác không minh thì còn lấy cái gì để gọi là minh tánh giác !
Phật bảo: Đúng vậy, Phú Lâu Na ! Nếu tánh giác không tự minh thì không lấy cái gì khác để minh tánh giác. Và, nếu tánh giác là cái sở minh thì không còn gọi là tánh giác nữa. Vậy ông nên hiểu: Tánh giác vốn minh mà chúng sanh lầm tưởng rằng phải nhờ cái minh để minh tánh giác. Sự thực tánh giác vốn không phải là cái sở minh. Nhơn vì lầm tưởng mà tánh giác trở thành ra sở? Cái vọng về sở đã thành, tất sanh cái vọng năng của ông. Nguồn gốc của vọng tưởng phát nguyên là như vậy.
PHẬT KHAI THỊ NGUỒN GỐC DUYÊN KHỞI
CỦA HIỆN TƯỢNG VẬT CHẤT
Phật bảo: A Nan ! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sanh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tính thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
PHẬT DẠY RÕ VỀ 3 TƯỚNG TƯƠNG TỤC
1. Thế giới tương tục:
Phật bảo: Phú Lâu Na ! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động nhau thành tánh năng dao động. Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sanh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hóa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại). Kim luân cọ sát với không khí trong hư không, biến ra năng lượng. Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó. Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì, từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hình thành viên mãn. Chỗ sâu có nước là biển; chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhơn đó, trong biển, lửa thường sanh khởi. Cồn bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng, Chỗ thế nước kém thế lửa, kết tụ thành núi cao, cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sanh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhơn quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhơn duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng.
2. Chúng sanh tương tục:
Lại nữa Phú Lâu Na ! “Vọng minh” không phải cái gì khác lạ. Do vì chúng sanh dùng cái tri kiến minh tri để minh tánh giác mà có sự lỗi lầm. Từ đó có cái sở minh. Sở minh đã có thì cái năng minh bị lệ thuộc vào. Vì vậy, tánh nghe không ngoài âm thanh; tánh thấy không ngoài màu sắc; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, 6 vọng trần đã hình thành làm đối tượng cho “vọng năng”: Những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết sanh khởi. Hễ đồng nghiệp thì hấp dẫn lúc hợp ly, khi tình, khi tưởng. Tánh thấy “năng minh” có, thì đương nhiên có sắc “sở minh” hiển hiện. Chủ thể đối tượng tác động vào nhau, từ cảm tính chuyển sang lý tính, từ lý tính nảy sinh khái niệm, từ khái niệm dẫn đến tư duy. Do tư duy có sự tưởng tượng nhận thức: Hễ ý kiến bị phủ nhận, sanh tâm lý ghen ghét. Tư tưởng được đồng tình, sanh tâm lý yêu thương. Dòng nước yêu thương kết thành chủng tử, thu nạp tưởng tượng hấp dẫn nghiệp đồng, tác hợp với “yết la lam” thành trạng thái của phôi trong thời gian gọi là “ngưng hoạt” (tinh trùng và noãn sào mới hợp nhau trong ba bốn tuần đầu). Thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, tùy nghiệp đồng và thích ứng của mỗi loài mà cảm ứng. Thai nhơn tình mà có. Noãn do tưởng mà sanh. Thấp bởi hợp mà cảm. Hóa vì ly mà ứng. Tình, tưởng, hợp, ly luôn luôn vận động đổi thay theo
nghiệp sở hành mà cảm thọ: Khi đi lên, lúc đi xuống xoay vần trong sáu nẻo. Đó là nguồn gốc làm cho chúng sanh tương tục không dừng.
3. Nghiệp quả tương tục:
Phật bảo: Phú Lâu Na ! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhơn tương tục: Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời ký chấm dứt. Hạng chúng sanh này do dục tham làm gốc.
Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sanh này do sát tham làm gốc.
Người cướp mang súc vật để ăn. Súc vật tiến hóa làm người. Người làm ác nghiệp thoái hóa làm súc vật. Mười loại chúng sanh xoay vần lên xuống, xuống lên, ăn nuốt lẫn nhau. Ác nghiệp ngày thêm, cho nên tột ngằn mé vị lai tương tục. Hạng chúng sanh này do đạo tham làm gốc.
Phú Lâu Na ! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người nầy mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người nầy. Người nầy thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu sắc đẹp của người nầy. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sanh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.
Phú Lâu Na ! Sở dĩ có ba thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm: Rằng phải nhờ lấy cái minh để minh tánh giác; không biết rằng: Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu, đại địa san hà vũ trụ vạn hữu là hiện tượng hữu vi có sanh có diệt là do kiến chấp
vọng tưởng của con người. Sự thực, thể tánh của các hiện tượng vốn thanh tịnh bản nhiên là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện.
TRỰC CHỈ
Đóng vai trò “tích hạ bản cao”, ông Phú Lâu Na và ông A Nan nghe tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa, như người điếc cách xa trăm bước lắng nghe tiếng muỗi mòng, thiết tưởng không phải là chuyện lạ. Do vậy ông mới trình lên Đức Phật những mối thắc mắc nghi ngờ, của hàng Thanh Văn tiểu quả, và trong mối nghi ngờ đó có của Phật tử chúng ta.
Ông Phú Lâu Na hỏi Phật:
Một, tại sao Như Lai tàng, tánh vốn thanh tịnh bản nhiên bỗng dưng lại chuyển biến sanh ra những hiện tượng hữu vi: Ấm, nhập, xứ, giới và các đại, để rồi hiện tượng vạn hữu
này tồn tại mãi với không gian và thời gian vô cùng vô cực?
Hai, Địa, thủy, hỏa, phong, kiến, và thức, trong bảy đại tánh chất có đối kháng nhau. Tại sao chúng có thể dung hợp được nhau trong Như lai tàng mà không tương tàn, tương diệt
?
Là một bậc thầy, một Ta Bà Giáo Chủ không cho phép từ chối giải đáp những thắc mắc chánh đáng cho đệ tử mình, dù thắc mắc đó có khó khăn đến mức nào cũng vậy.
Phật bảo ông Phú Lâu Na, đó là vấn đề “thắng nghĩa” của các pháp, vấn đề cội nguồn của sự vật hiện tượng vạn pháp. Nói đến vấn đề này là đề cập đến tánh chơn như, bàn đến tánh thường như của vạn pháp. Như Lai dạy: sự thật, hiện tượng vạn pháp cùng chung một bản thể: Như Lai tàng. Hữu tình vô tình đều phát xuất từ chủng tử trong Như
Lai tàng vận động, biến chuyển duyên khởi mà hình thành. Thoạt kỳ thỉ, tất cả hiện tượng vạn pháp sanh khởi hình thành bằng tánh như thị bản nhiên của nó. Đồng chủng thì hợp lại, dị chủng thì đẩy ra, đồng tánh thì chống nhau, dị tánh thì hút nhau. Sự hợp, đẩy, chống, hút, không do ai làm, không bị ai xui, không bởi thế lực “thiêng liêng” nào sắp
xếp. Vì vậy, trong đó không có cái sơ?và cái năng. Năng nghĩa là có ai đó… làm, xui hay sắp xếp. Sở là cái bị ai đó sắp xếp, làm và xui nên. Tánh “Thường như” của vạn pháp vốn không có vấn đề năng sở, nghĩa là không có chủ thể phân biệt và đối tượng phân biệt. Tất cả cùng một bản thể, tùy duyên vận động chuyển biến hiện ra như vậy và như vậy:
Duy thức luận nói:
“Do thức nhất thiết chủng Nó biến như vậy như vậy Do quá trình vận động Hiện tượng sự vật sanh.”
(Do nhất thiết chủng thức
Như thị như thị biến Dĩ triển chuyển lực cố Bỉ bỉ phân biệt sanh).
Thể tánh của hiện tượng vạn pháp trong Như Lai tàng vốn nhiệm mầu trong sáng không có vô minh. Tánh giác diệu minh bản giác minh diệu là tánh chất vốn vậy trong Như Lai tàng. Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới và bảy đại sanh diệt, diệt sanh
trong Như Lai tàng không phải là vấn đề đáng quan tâm thắc mắc, vì đó là vấn đề: vũ trụ vạn hữu tồn tại khách quan trong quy luật vô thường vận động sanh diệt, diệt sanh của chúng.
Tương quan thân thiết với con người là vấn đề nhơn sanh quan, mới là điều nên đầu tư suy nghĩ. Đã là tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu, thế nhưng tại sao con người có thể bị mất đi cái đó để rồi phải chuốc lấy phiền não buộc ràng trong sanh tử khổ đau ?
Phật dạy: Tánh giác tất minh, vọng vi minh giác nghĩa là do vọng tưởng khởi, sanh phân biệt chấp mắc hiện tượng vạn hữu. Do đó hiện tượng vạn hữu trở thành đối tượng sở minh. Cái phân biệt của con người trở thành năng minh để đánh giá cái tánh giác diệu minh của hiện tượng vạn pháp và chấp thủ sai lầm về cái bản giác minh diệu của chính mình. Do vọng tưởng sai lầm không đầu mối đó (sai lầm vô thỉ) dẫn đến nhận thức sai lầm: mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn… những cái thuộc loại “khách trần” và có chỗ trả về ấy lại chiếm ngự ở mãi lòng ta !
Vấn đề: địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức, vì sao dung hóa được nhau; trong thực tế chúng có tánh đối kháng nhau rõ rệt !
Phật dạy: Địa thủy hỏa phong… đầy khắp pháp giới mà tánh hư không, không bị choán mất tiêu vong, vì vậy nên Như Lai nói: Tánh sắc chơn không. Hư không có đủ tất cả tánh chất của địa, thủy, hỏa, phong… vì vậy Như Lai mới nói: Tánh không chơn sắc (Chữ tánh phải được hiểu thể tánh của các tánh). Thủy đại đầy khắp pháp giới mà không triệt tiêu hỏa đại không ngập chìm tất cả thế gian, vì vậy Như Lai nói: Tánh thủy chơn không.
Pháp giới không đại, vốn không phải là thủy đại, vậy mà trong không đại khắp đầy thủy đại, cho nên Phật dạy: Tánh không chơn thủy. Hỏa đại đầy khắp hư không mà không cháy sơn hà thảo mộc vạn hữu thế gian. Vì vậy, Phật nói: Tánh hỏa chơn không. Hư không vốn không hỏa nhưng lúc chúng sanh cần thì hỏa có trong hư không, cho nên Phật dạy: Tánh không chơn hỏa…, các đại còn lại cũng suy như vậy…
Tánh các đại vốn không ngăn ngại gì nhau, người đệ tử Phật học đến đây có thể nhận thức rõ chơn lý: Sắc bất dị không; không bất dị sắc. Sắc tức thị không; không tức thị sắc rồi vậy.
Nguồn gốc duyên khởi của hiện tượng vật lý chỉ là vấn đề tất nhiên: hiện tượng vạn hữu tồn tại khách quan theo quy luật: “Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Đồng chủng tương ứng
Dị chủng tương xích
Đồng tánh tương cự
Dị tánh tương hấp
Đồng năng tương bội
Dị năng tương để
Do vậy trong Như Lai tàng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể “liên tỏa” (kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau) để thành một chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại cũng có thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật cũ mất đi, hình thành sự thật mới nối tiếp…
Luận nguồn gốc thế giới tương tục là chỉ đề cập đơn thuần bên mặt vật lý. Nói đến chúng sanh tương tục phải đề cập hai phần: vật lý và tâm lý tổ hợp mà hình thành. Cái động cơ thúc đẩy khiến cho chúng sanh sanh tử tương tục là nghiệp. Nghiệp là hành động được biểu hiện qua thân, miệng và ý thức, trong đó ý thức là then chốt. Do ý nhận thức sai lầm về “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chơn lý vũ trụ quan; sai lầm về “Bản giác minh diệu” làm mê mờ chơn lý nhân sanh quan. Vấn đề “Vọng năng” “Vọng sơ?quot; là vấn đề tối hệ trọng. Bởi vì con người vốn không phải là kẻ năng cầu, năng lễ và năng nguyện, để được giáng phúc, ban ơn do đấng sở lễ, sở cầu, sở nguyện nào đó. Nhưng khi đã bị vọng tưởng sai lầm biến con người thành “Vọng năng” rồi thì “Vọng sở” đương nhiên chấp nhận có. Có năng sở tức là có chủ thể và đối tượng. Thế rồi, ý trái sanh ghét, ý đồng
sanh tương… Dòng nước ân ái yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Hấp dẫn đồng nghiệp tác hợp với phôi. Phôi lớn thành thai, rồi lục nhập, xúc, thọ, ái… theo thời gian mà phát triển. Thai nhơn tình mà có. Noãn do tưởng mà sanh. Thấp nhờ hợp mà cảm.
Hóa bởi ly mà ứng. Tình, tưởng, hợp, ly theo sức nghiệp mà lúc xuống khi lên. Do vậy mà chúng sanh tương tục.
Về nghiệp quả tương tục, Phật chỉ rõ bởi ba nguyên nhơn chánh:
Tưởng và ái nặng, biểu hiện của con người nhiều dục và nhiều tham.
Dục và tham là một trong ba nguyên nhơn làm cho chúng sanh gánh chịu nghiệp quả
tương tục.
Tham và ái nặng biểu hiện của con người nặng về tham và nặng về sát. Chính sát và
tham là nguyên nhơn khiến cho chúng sanh gánh chịu nghiệp quả tương tục.
Thực và ái nặng, con người cướp sanh mạng của thú cầm, súc vật để ăn, biểu hiện con người nặng về đạo, nặng về tham. Đạo và tham làm nhơn thì con người phải gánh chịu sự vay trả trả vay tương tục.
GIÁC KHÔNG SANH MÊ THẤT ĐẠI DUNG
ĐƯỢC NHAU MÀ KHÔNG CÓ GÌ TRỞ
NGẠI GIÁC KHÔNG SANH MÊ
Ông Phú Lâu Na thưa: Bạch Thế Tôn ! Nếu tánh giác vốn nhiệm mầu trong sáng cùng với tâm Như Lai không kém không hơn. Thế mà vô cớ bỗng nhiên lại sanh núi sông đất liền các hiện tượng hữu vi sanh diệt ! Vậy hiện nay Như Lai đã chứng nhập bản thể giác minh (tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu ấy), ví phỏng chừng nào Như Lai sanh lại vọng tưởng phân biệt đối với các pháp hiện tượng hữu vi ? Và chừng nào hoặc lậu của Như Lai sanh trở lại ?
Phật bảo: Phú Lâu Na ! Ví như có người do mê mà lầm cho phương Nam là phương Bắc, cái mê như vậy, không nhân mê mà có, vì mê vốn không gốc rễ, không có hình dáng kích thước, cũng không phải sắc màu; càng không phải nhân ngộ, vì ngộ là tỉnh là sáng suốt, ngộ không sanh mê. Người mê đang lúc mê bỗng có người ngộ giải thích chỉ bày cho được ngộ; người mê hóa giải, dứt được cái mê thì phương hướng Bắc Nam không còn
lầm lộn nữa. Mười phương Như Lai cũng vậy. Mê vốn không gốc rễ, tánh của nó là không. Xưa vốn không có mê, tựa hồ như có mê, có giác. Giác được mê thì mê diệt; giác vốn không sanh mê. Lại cũng như người nhặm mắt, thấy hoa đốm đầy nhẩy hư không. Nếu trị dứt bệnh nhặm thì hoa đốm trong không tự hết. Nếu ai đó mong chờ cho hư không sanh hoa trở lại là kẻ quá ngu si, với hạng người như vậy, không thể nói: Rằng họ là người ngu hay trí !
Lại nữa ! Phú Lâu Na ! Ví như quặng vàng lẫn lộn với vàng ròng. Khi vàng đã nấu lọc tinh rồi thì vàng không là quặng nữa. Lại cũng như gỗ đã đốt thành tro; tro không thể hoàn nguyên tánh gỗ được.
Phú Lâu Na ! Vấn đề Niết bàn của mười phương Như Lai cũng như vậy. Như Lai không bao giờ sanh lại vọng tưởng phân biệt để chấp mắc các hiện tượng hữu vi. Và cũng không có việc Như Lai sanh lậu hoặc trở lại.
LẠI NÓI RÕ VẤN ĐỀ CÁC ĐẠI CÓ THỂ DUNG NHAU
Phật bảo: Phú Lâu Na ! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại: Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức, lại có thể dung nhau ? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau ?
Phú Lâu Na ! Ví như hư không, thể của nó vốn không phải hình tướng, nhưng nó không chống đối các tướng phát huy trong nó. Phú Lâu Na ! Bầu hư không vô cực kia, hễ mặt trời soi thì sáng, mây ùn thì tối, gió lay thì động, trời tạnh thì trong, hơi đọng thì đục, bụi nổi thì mù, nước lặng thì lóng lánh. Phú Lâu Na ! Ông hiểu thế nào ? Các tướng hữu vi sai khác dường ấy. Vậy nó nhân những cái đã có kia mà tự sanh hay nhân hư không mà có ? Phú Lâu Na ! Nếu bảo rằng do những cái kia tự sanh, vậy khi mặt trời soi, mặt trời sáng thì mười phương thế giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư không lại còn thấy mặt trời tròn ? Nếu bảo rằng hư không sáng, thì hư không tự soi lấy, cớ sao giữa lúc đêm mây mù không có ánh sáng soi ? Vậy nên biết rằng: Cái sáng không phải mặt trời, không phải hư không, nhưng cũng không ngoài hư không và mặt trời.
Phú Lâu Na ! Ông nên biết rằng: Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và đích thực được. Nhưng đứng trên bản thể mà tư duy, ta sẽ thấy bản thể là chơn: Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu, cho nên
“địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. Thủy, hỏa, phong… cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không dung nhau được.
Trong bản tánh minh diệu của Như Lai tàng, ông cần phát minh hư không thì có hư không hiện ra. Địa, thủy, hỏa, phong… mỗi mỗi đều cần thì mỗi mỗi hiện ra. Ví như một dòng nước in bóng mặt trăng. Hai người cùng trông thấy bóng mặt trăng in đáy nước. Rồi người đi về Đông, người đi về Tây cả hai đều thấy có mặt trăng theo mình, mà không có chuẩn đích cho mặt trăng cố định. Trước sự kiện đó không nên gạn hỏi: Mặt trăng là một, sao có thể đi theo hai hướng khác nhau ? Cũng không được hỏi: Mặt trăng đã thành hai, sao trước kia hiện ra có một ?
Phú Lâu Na ! “Duyên sanh như huyễn” là vậy đó. Vì vậy, mà Như Lai dạy: Tánh sắc
chơn không. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: Tánh không chơn sắc… Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của chính mình !
TRỰC CHỈ
Tánh giác diệu minh cho nên giác không sanh mê. Mê không gốc rễ, không hình dáng, không kích thước, sắc màu. Rõ ràng mê không tự thể, lấy gì để gọi đó là mê. Huyền Giác thiền sư nói: “thật tánh vô minh là Phật tánh”. Hễ giác sanh thì mê diệt. Sự thật quá rõ ràng.
Người đệ tử Phật có tư duy tu tập sẽ thấy rõ rằng Chơn tâm thường trú, Thể tánh tịnh minh là cái thường cái thật cái có sẵn của chính mình. Còn cái bất giác, cái mê, cái
tham, sân, si, mạn hữu lậu nghiệp là những cái “vọng thành”. Chúng là “khách” là “trần” chúng đến rồi đi và có chỗ trả về cho “nguyên quán” của chúng.
Hỏi Như Lai chừng nào sanh bất giác vô minh trở lại là câu hỏi của người đệ tử đối với giáo lý Phật, còn “chợt tỉnh chợt mê”: Chưa xác định được vấn đề Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu. Chưa nhận rõ: vấn đề thể tánh tịnh minh cũng như không biết được Như Lai viên giác diệu tâm là gì. Ở đoạn kinh này Phật dạy rất rõ rằng:
Người không nhặm mắt, trông lên hư không thấy một màu thanh tịnh sáng trong. Chỉ vì bệnh nhặm mắt mà người ta trông hư không thấy toàn là hoa đốm. Hoa đốm ngập tràn là do bệnh nhặm mắt mà có ra. Khi bệnh nhặm mắt hết rồi, hoa đốm không còn là vấn đề người trí bận tâm: Rằng có, rằng không, rằng chừng nào hoa đốm nở đầy hư không trở lại !
Phật dạy: vấn đề các đại có thể dung nhau là vì tánh chất duyên sanh của nó. Hiện tượng vạn pháp do nhơn duyên sanh, cho nên không pháp nào có tự thể độc lập, cố định đích thực của riêng mình. Như Lai đã khổ công dạy bảo: Rằng Tánh sắc chơn không tánh không chơn sắc… Tánh thủy chơn không tánh không chơn thủy… Tánh hỏa chơn không tánh không chơn hỏa… Tánh phong chơn không tánh không chơn phong… Tất cả đều “thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện”…
Do vậy mà các đại dung nhau, không trở ngại gì nhau, cũng là một sự thật ẩn hiện trước mắt mọi người !
KHIỂN TRÁCH CHÚNG SANH BỘI GIÁC HIỆP TRẦN
VÀ KHAI THỊ PHƯƠNG PHÁP BỘI TRẦN HIỆP GIÁC
BỘI GIÁC HIỆP TRẦN
Phật bảo: Phú Lâu Na ! Do nhận thức đánh giá của ông về Sắc không của Như Lai tàng thì Như Lai tàng theo cái nhận thức của ông mà có Sắc không khắp cùng pháp giới. Vậy nên ông thấy gió thì động, hư không thì tĩnh, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Ông và tất cả chúng sanh mê lầm, sống trái với giác tánh mình mà hiệp với trần tướng cho nên sanh khởi cái nhận thức trần lao. Do đó có các tướng thế gian đối tượng.
BỘI TRẦN HIỆP GIÁC
Phú Lâu Na ! Như Lai sử dụng tánh giác diệu minh không sai lầm nhận thức, không đánh giá điên đảo. Như Lai tàng là tánh giác diệu minh khắp trùm pháp giới. Vậy nên đối với Như Lai: Một là tất cả, tất cả là một; trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, ngồi tại đạo tràng bất động mà như ở khắp mười phương; một thân mà trùm cả hư không vô tận, đầu một mảy lông mà hiển hiện ra vô vàn cõi Phật; ngồi trong vi trần bé bỏng mà vận chuyển đại pháp luân; diệt hết nhận thức sai lầm trần tướng, sống hợp giác tánh, cho nên Như Lai nhìn đâu cũng là tánh chơn như sáng suốt giác ngộ nhiệm mầu.
TRỰC CHỈ
Trái với giác tánh hợp với trần lao là tâm trạng chung của tất cả mọi người thế gian chưa đủ điều kiện quay về đường giải thoát giác ngộ. Người ta thường nhận thức, đánh giá và đặt tên cho sự vật theo tri kiến chủ quan của mình. Do vậy chủ thể và đối tượng hiển nhiên. Năng và sở đối lập, nhơn, ngã, bỉ, thử bời bời rối răm. Đó là hậu quả của sự “bội giác hợp trần”.
Phật vẫn là một con người, nhưng khác với mọi người ở chỗ là không nhận thức đánh giá sai lầm sự vật hiện tượng theo tri kiến đảo điên chủ quan. Mà Như Lai sống đúng, sống hợp với tánh giác diệu minh của Như Lai tàng và tánh duyên sanh “như vậy” của hiện tượng vạn hữu.
Nhận thức hiện tượng vạn hữu qua “Tri kiến Phật” thì một là tất cả, tất cả là một, ngồi trong vi trần bé xíu mà chuyển xe pháp vĩ đại bao la. Ngôn ngữ đoạn kinh này, nếu y văn mà hiểu nghĩa thì rõ là oan cho ba đời chư Phật. Thâm nghĩa của đoạn kinh này, nhằm dạy cho đệ tử Phật về vấn đề bản thể chung cùng của hiện tượng vạn hữu: Rằng vòng, kiền, trâm, nhẫn, nút áo, hoa tai, nếu nhìn hình dáng và tên gọi khác nhau, nhưng tất cả cùng là vàng 24 cara. Lấy ra một điểm nhỏ trong những đồ trang sức đó, đem thử lửa, người thợ kim hoàn đánh giá không sai tuổi của tất cả những món đồ vàng còn lại. Với tri kiến như vậy, nên gọi Như Lai là bậc “bội trần hợp giác”.
PHẬT KHAI THỊ NHƯ LAI TÀNG RỜI TẤT CẢ TƯỚNG,
LÀ TẤT CẢ PHÁP NHƯ LAI TÀNG RỜI TẤT CẢ TƯỚNG
Như Lai tàng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn. Tuy nhiên, nó không phải là tâm; không phải là không; không phải địa; không phải thủy; không phải hỏa; không phải phong; nó không phải nhãn; không phải nhĩ; không phải tỷ; không phải thiệt; không phải thân, không phải ý; nó không phải là sắc, không phải thanh, không phải hương, không phải vị; không phải xúc; không phải pháp; nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới, nó không phải minh; không phải vô minh, không phải hết vô minh; cho đến không phải lão tử; không phải hết lão tử; nó không phải khổ; không phải tập; không phải diệt, không phải đạo; nó không phải trí cũng không phải đắc, nó không phải bố thí; không phải trì giới; không phải nhẫn nhục; không phải tinh tấn, không phải thiền định; không phải trí tuệ; nó không phải là Như Lai, là ứng cúng, chánh biến tri; nó không phải đại niết bàn; không phải thường lạc, ngã tịnh, vì Như Lai tàng không phải là pháp thế gian, mà cũng không phải là pháp xuất thế gian.
NHƯ LAI TÀNG LÀ TẤT CẢ PHÁP
Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai tàng lại cũng tức là tâm, là không, là
địa, là thủy, là hỏa, là phong; cũng tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý; cũng tức là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp; cũng tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới; cũng tức là minh, là vô minh, cho đến là lão tử, là hết lão tử; cũng tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo; cũng tức là trí, là đắc, cũng tức là bố thí, là trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ; cho đến cũng tức là Như Lai là ứng cúng, là chánh biến tri; cũng tức là đại niết bàn; là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì vậy, Như Lai tàng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.
DÙNG PHẬT NHÃN NHÌN HIỆN TƯỢNG VẠN PHÁP, KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ LÀ HAY KHÔNG LÀ
TRONG NHƯ LAI TÀNG BẢN THỂ CHƠN NHƯ MẦU NHIỆM
Này Phú Lâu Na ! Như Lai tàng vốn nhiệm mầu trong sáng, vượt ngoài sự phê phán đánh giá “là” hay “không phải là”. Vậy nên, chúng sanh trong ba cõi và hàng Thanh Văn
Duyên Giác dùng cái tri thức cạn cợt thì làm sao mà đo lường bồ đề vô thượng của Như Lai; đem ngôn ngữ hạn cuộc của thế gian mà diễn đạt cái tri kiến Phật thậm thâm sao cho đến được ! Ví như các nhạn khí: Dương cầm, phong cầm, lục huyền cầm… dù có âm thanh tuyệt diệu nhưng nếu không có bàn tay điêu luyện của nghệ sĩ tài hoa thì cũng không phát ra được những tiếng hay. Ông và chúng sanh cũng vậy. Chân tâm giác minh mọi người đều đầy đủ. Thế mà Như Lai ấn ngón tay thì rực rỡ hào quang, còn các ông
vừa móng tâm thì trần lao đã nổi dậy. Đó là do các ông không siêng năng cầu vô thượng giác mà ham ưa pháp tiểu thừa, được chút ít cho là đủ !
TRỰC CHỈ
Như Lai tàng là bản thể chơn như của hiện tượng vạn pháp. Chơn có nghĩa là không gì phá hoại được. Như có nghĩa là không thể xây dựng thêm gì được nữa. Như Lai tàng rời tất cả tướng thế gian, nhưng không phải là ở cảnh giới xa xăm nào khác. Như Lai tàng là tất cả pháp, nhưng không phải ai cũng nhận biết rằng: Mình đang sanh hoạt trong Như Lai tàng. Như Lai tàng hiện hữu trong hiện tượng vạn pháp, biểu hiện thông qua hiện tượng vạn pháp, thế mà chúng sanh suốt cả cuộc đời chỉ biết có hiện tượng vạn pháp mà không hề nghĩ đến bản thể Như Lai tàng mầu nhiệm. Như Lai tàng là sức sống vô tác nhậm vận của con người, là sanh khí hồn nhiên của hiện tượng vạn pháp, cho nên người ta xem thường xem rẻ nó. Người ta xem thường xem rẻ nó cũng như người ta đã từng xem rẻ hơi thở của lỗ mũi, của buồng hô hấp, của sự co bóp của nhịp tim họ, họ xem rẻ cái thấy của mắt, họ xem rẻ thứ nước cam lồ trong miệng của họ. Có mấy ai quan tâm xem trọng những thứ quý giá vô giá ấy đâu. Mà người ta rất quý giá giấy bạc và những khâu vàng… Thế mà người ta quí cái ngọn mà xem thường cái gốc của sự sống của chính mình
!
Nhận thức vấn đề “Là” hay “Không là” chúng ta nên học theo cái tâm trạng của người trí ngắm biển trong một buổi hoàng hôn trời đẹp. Người ta không băn khoăn thắc mắc rằng: Sóng la?>nước hay sóng không là nước. Vì người ta biết rằng: sóng và nước không phải là một, nhưng cũng không được bảo đó là hai. Không phải một vì sóng là sóng; sóng không phải nước. Không được bảo hai, vì sóng là hiện tượng của nước, nước là bản thể của sóng. Múc lên một chén sóng, cũng tức là múc được một chén nước rồi vậy.
MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NGUYÊN NHÂN
HẾT MÊ LÀ BỒ ĐỀ (Giác)
Ông Phú Lâu Na thưa: Bạch Thế Tôn ! Chơn tâm thanh tịnh giác ngộ viên mãn của tôi và của Như Lai không hai; vậy mà tôi thì bị vọng tưởng vô thỉ sai tử cho nên ở trong luân
hồi lâu xa nhiều kiếp; nay dù được thánh quả mà còn chưa rốt ráo. Thế Tôn thì các vọng được gạn lọc sạch trong, còn thuần một tâm tánh chơn thường mầu nhiệm. Tôi xin hỏi Như Lai: Tất cả chúng sanh do nguyên nhân nào mà có vọng để rồi tự che mất tâm tánh sáng suốt nhiệm mầu của mình, phải chịu luân hồi trôi nổi khổ đau ?
Phật bảo: Phú Lâu Na ! Ông dù trừ được tâm nghi, nhưng tư tưởng mê lầm chưa hết. Ông há không nghe trong thành Thất La Phiệt có chàng Diễn Nhã Đạt Đa vào một buổi sáng mai, đứng trước gương soi mặt, bỗng dưng ham thích cái đầu trong gương, còn cái đầu của mình tự bấy lâu nay anh ta cho là đồ yêu quái, vì anh chẳng thấy được mày, mắt, mặt, mũi, đẹp đẽ như cái mặt trong gương. Rồi chàng ta kinh hãi phát điên ôm đầu chạy
hoảng.
Phú Lâu Na ! Ông nghĩ thế nào ! Diễn Nhã Đạt Đa do nguyên nhân gì, bỗng dưng phát
điên ôm đầu chạy hoảng ?
- Bạch Thế Tôn ! Tâm người ấy điên chớ không duyên cớ gì khác.
- Phú Lâu Na ! Tánh giác thì tròn đầy sáng suốt mầu nhiệm từ xa xưa nhẫn nay không lúc nào tạm vắng ở trong ông. Còn cái vọng ? Đã gọi là vọng thì làm sao có nguyên nhân ! Nếu có nguyên nhân thì sao gọi là vọng được ? Vọng tưởng tự xoay vần làm nhân cho nhau, từ cái mê này nảy thêm cái mê khác tích lũy qua số kiếp như vi trần cho nên dù
Phật chỉ rõ mà ông hãy còn chưa biết trở về. Cái nhân của mê do mê mà tự có. Biết được cái mê không có nguyên nhân thì cái vọng không có chỗ gá sanh. Thế thì cái sanh còn không có, còn đem cái gì để làm cái diệt ? Giả sử có cái diệt thì diệt để diệt cái gì ?
Phú Lâu Na ! Người được đạo bồ đề ví như người tỉnh giấc, kể chuyện trong chiêm bao. Tâm ghi nhớ rõ ràng nhưng không sao lấy vật trong chiêm bao ra được; huống chi cái mê vốn không, không nhân, không gì cả thì tìm sao cho nó có cội nguồn ? Như Lai cái điên của chàng Diễn Nhã đâu có nguyên nhân, tự sợ đầu mình mà bỏ chạy. Khi hết điên thì cái đầu cũng vẫn là cái đầu của anh vốn có. Lúc điên loạn, cũng không vì vậy mà anh tạm
mất cái đầu.
Phú Lâu Na ! Tánh của cái vọng là như vậy, làm sao tìm có nguyên nhân ? Ông chỉ cần đi ngược dòng tương tục của ba thứ: Thế gian, nghiệp quả và chúng sanh, ba duyên đã chặt đứt thì ba chân chẳng có cơ sở để sanh. Bấy giờ cái tánh điên cuồng Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ông tự hết. Hết tức là bồ đề. Cái chân tâm trong sáng khắp cùng pháp giới xưa nay, không có ai cho mà tự được; chẳng cần tu chứng nhọc nhằn vất vả lôi thôi ! Ví như người có hạt như ý châu trong vạt áo mà không biết không hay, gần suốt cuộc đời tha phương cầu thực cùng khổ lang thang bỗng có người thiện hữu phát hiện, chỉ hạt châu cho, bấy giờ người cùng khổ trở thành giàu có nhất đời, ngồi gẫm lại nửa đời lưu lạc tự hận cho số kiếp dại khờ: Thì ra viên như ý châu không phải từ ngoài, ai đem đến !
TRỰC CHỈ
Thực quá rõ ràng, không còn dạy cách nào rõ hơn nữa được:
Vọng không có nguyên nhân, vì không nhân nên mới gọi vọng. Vọng ở đây nhằm ám chỉ cho mê, tánh mê, tánh bất giác, tánh phiền não đột xuất ở tâm tánh con người. Người đệ tử Phật có tư duy, sẽ nhận thấy rõ về vấn đề mê và giác ở chính bản tâm mình: Mê vọng thuộc khách trần; Giác minh ví như hư không và chủ.
Biết được me hông có nguyên nhân thì vọng không có chỗ gá sanh. Đã không có sanh thì khỏi đặt vấn đề diệt. Do vậy:
Khỏi cầu chân Khỏi diệt vọng Biết được:
“Vọng nguyên vô xứ tức bồ đề.”
Vấn đề tu chứng Bồ đề Như Lai đã từng nói: Như Lai nào có chứng đắc gì đâu. Nằm ngủ trên giường mà rên siết khóc kêu thì người ta gọi đó là người đang cơn ác mộng. Lúc tỉnh dậy rồi chính mình nằm trên giường đó, có chăn ấm nệm êm, thì ra không phải chiếc giường là nguyên nhơn gây đau khổ. Giác sanh, mê diệt là vậy. Cũng như người ta tạo hoàn cảnh vui đến thì dữ kiện khổ tự nó mất đi.
Nghèo khổ là nghèo khổ, dù đang hồi nghèo khổ mà như ý bảo châu vẫn y nhiên trong chéo áo của kẻ cơ hàn. Ngày phát hiện như ý bảo châu, trở thành người cự phú thì ra hạt châu vốn là hạt châu trong chéo áo mình đã sẵn có tự bấy lâu nay.
LẠI RƠI VÀO NHẬN THỨC ĐỐI ĐÃI CỦA THUYẾT NHƠN DUYÊN VÀ TỰ NHIÊN
Bấy giờ ông A Nan đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch rằng:
Đức Thế Tôn nói về các nghiệp sát, đạo, dâm và ba duyên đoạn rồi thì ba nhân không sanh, tánh điên Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm tự hết. Hết tức bồ đề, không do ai đem đến.
Bạch Thế Tôn ! Như thế rõ là nhân duyên rồi, tại sao Như Lai bác bỏ nghĩa nhân duyên ? Chẳng riêng gì tôi mà một số Thanh Văn trong hội này: Như ông Đại Mục Kiền Liên,
ông Xá Lợi Phất, ông Tu Bồ Đề v.v… đều do nghe lý nhân duyên của Phật mà phát tâm mà tỏ ngộ, được thành quả vô lậu.
Nay Phật dạy Bồ đề không do nhân duyên; vậy thì các thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo Câu Xa Ly, thành Vương Xá lại là đệ nhất nghĩa rồi sao ? Xin Phật rũ lòng đại bi chỉ giáo cho kẻ chưa hết mê mờ !
Phật bảo: A Nan ! Theo ý ông thì chàng Diễn Nhã Đạt Đa kia, nếu diệt trừ hết “nhân duyên điên” thì tánh “tự nhiên không điên” hiện ra. Lý nhân duyên tự nhiên theo hiểu biết của ông, luận đến cùng là như vậy ?
Này ! A Nan ! Cái đầu chàng Diễn Nhã Đạt Đa vốn là “tự nhiên”. Nếu nó đã “tự nhiên”, vậy do “nhân duyên” gì mà sợ cái đầu phát điên ôm chạy ? Đầu vốn “tự nhiên” vì “nhân duyên” gì mà điên ? Tại sao không vì “nhân duyên” gì mất đi để khỏi điên ?
Cái đầu không mất, cũng chẳng thay đổi chút nào. Còn cái điên sợ là do mê vọng mà có, không bởi, cũng chẳng tại “nhân duyên” mà có ra. Nếu tánh điên vốn là “tự nhiên”, tự nhiên sẵn có tánh hoảng sợ, vậy lúc chưa điên, cái điên ẩn trú chỗ nào ? Tánh hoảng sợ nương náu nơi đâu ? Nếu tánh không điên là tự nhiên thì trong đầu chẳng có việc gì, cớ sao lại phát điên ôm đầu chạy ?
Nếu hiểu kỹ rằng: Cái đầu là đầu của mình sẵn có rồi. Biết chắc rằng: vì điên mà ôm đầu chạy hoảng thì cái thuyết “nhân duyên” “tự nhiên” đều là hý luận. Thế nên Như Lai nói: Ba duyên đoạn rồi là Bồ Đề tự hiện. Nếu bảo rằng: Đoạn ba duyên rồi thì bồ đề tâm sanh, vì tâm sanh diệt đã diệt thì đó cũng chỉ là “sanh”, “diệt” trong vòng đối đãi. Diệt và sanh đều xóa hết, mới đến chỗ “vô công dụng” (địa vị kiến đạo, tức quả sơ địa).
A Nan ! Bồ đề Niết bàn còn xa, nếu ông không siêng năng tu tập, dù ông có nhớ diệu nghĩa 12 bộ kinh của thập phương Như Lai cũng chỉ thêm nhiều hý luận; dù ông có luận tập đa văn, ông cũng vẫn không tự hóa giải nạn Ma Đăng Già; dù nhiều kiếp nhớ ghi diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp: Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian. Ma Đăng Già trước kia là dâm nữ, do được nghe Thủ Lăng Nghêm mà diệt được lòng ưa muốn. Nay trong Phật pháp nàng có tên Tánh tỳ kheo ni. Cũng như Da Du Đà La, nàng tỏ ngộ cái nhân ở nhiều đời trước, biết rõ tham ái là khổ, cả hai cùng chuyên tâm tu tập vô lậu thiện, cho nên người thì ra khỏi buộc ràng, kẻ được Phật thọ ký. Còn ông ! Sao ông tự khinh mình, để mắc mưu mãi trong vòng nghe thấy.
TRỰC CHỈ
Như chúng ta đã biết, tất cả hiện tượng vạn hữu không có một sự vật nào tự nhiên mà có. Đơn vị của sa mạc là hạt cát tí ti; đơn vị của núi cao là hòn đá nho nhỏ; đơn vị của biển cả là sông, ngòi, khe, lạch cho đến những giọt sương chiều. Cho nên không thể “tự
nhiên” mà có tòa cao ốc sừng sững hiên ngang trong đô thị.
Không phải Tự nhiên thì ông A Nan phải xoay sở phía nhân duyên vậy. Nhưng khổ thay ! Ông A Nan chưa hiểu Bản thể chơn như của hiện tượng vạn pháp !
“Tất cả các pháp này, từ xưa nhẫn nay, rời ngôn thuyết, rời văn tự, rốt ráo bình đẳng, thể
của nó là Tâm. Tâm la? Bản thể chơn như vậy”.
Do vậy, đem ngôn ngữ luận đàm, đem văn tự miêu tả rằng nhơn duyên rằng tự nhiên…
thì làm sao khỏi bị Phật quở là hý luận.
Làm sao tìm được đầu mối nguyên thỉ của sự vật để gọi là Nhân ? Nhân đã không tìm được thì Duyên chỉ là cái nhân phụ, đem dùng vào việc gì ? Phật ví dụ điển hình về cái điên của anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa” để cho người đệ tử Phật suy nghĩ kỹ về cái “Tự nhiên” và “Nhân duyên” cụ thể. Nếu đã là tự nhiên không điên thì Nhân duyên gì phát điên ôm đầu chạy hoảng ?
Thế nên biết rằng: Tự nhiên đã sai lầm, Nhân duyên cũng chỉ là hý luận mà thôi.
Sự thật của hiện tượng vạn pháp, phát nguyên từ bản thể chơn như mầu nhiệm. Nó ly tất cả ngôn ngữ văn tự.
PHẬT CHỈ HAI NGHĨA QUYẾT ĐỊNH ÔNG A NAN TRẦN THUẬT CHỖ
THÂM NGỘ VÀ THỈNH VẤN PHÁP TU GIẢI THOÁT
Ông A Nan và đại chúng nghe Phật dạy, những mối nghi hoặc được trừ, tâm ngộ thật tướng, thân ý khinh an được cái vui chưa từng có. Người người cảm kích sung sướng đến rơi nước mắt.
Bấy giờ ông A Nan đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật thưa: Bạch Thế Tôn ! Đức đại bi vô thượng thanh tịnh bảo vương, khéo dùng phương tiện: Nhơn duyên, thí dụ, lời lẽ mở mang tâm trí, hướng dẫn chúng tôi ra khỏi biển khổ tối tăm. Bạch Thế Tôn ! Nay tôi dù được nghe pháp âm như vậy, tôi nhận biết Như Lai tàng bản thể, là chơn tâm vốn giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu, nó trùm chứa tất cả cõi nước thanh tịnh bảo nghiêm của mười phương chư Phật. Dù vậy, tâm trạng tôi vẫn còn là tâm trạng của kẻ lữ hành phiêu bạt, bỗng gặp thiên vương cho ngôi nhà tráng lệ nguy nga, tuy được nhà lớn, song điều cốt
yếu là phải biết cửa để vào. Cúi xin Như Lai đem lòng đại bi vô hạn chỉ dạy cho những kẻ tối tăm trong hội này rời bỏ tiểu thừa, được vô dư niết bàn Như Lai vô thượng, và
cũng khiến cho hàng hữu học biết cách uốn dẹp tâm vướng víu lâu đời dễ được pháp tổng trì, chứng nhập tri kiến Phật.
Ông A Nan thưa thỉnh rồi lễ Phật, cùng đại chúng chăm lòng chờ nghe Phật dạy.
Đức Thế Tôn thương xót đại chúng, ôn tồn khuyên bảo: Nếu các ông quyết định phát tâm Bồ Đề đối với pháp tam ma đề (thủ lăng nghiêm đại định) không sanh tâm mỏi mệt thì trước hết hãy nhận thức rõ ràng về hai nghĩa quyết định sau đây:
NGHĨA QUYẾT ĐỊNH THỨ NHẤT PHẬT DẠY RÕ VỀ SỰ TÁC DỤNG
CỦA SẮC TÂM VÔ THỈ
A Nan ! Nếu các ông muốn rời bỏ tiểu thừa thẳng vào tri kiến Phật, nên xét kỹ nguyên nhơn phát tâm và quả sở chứng mà các ông mong đạt đến. Nếu đem tâm sanh diệt, tham cầu phước báo… mà mong được quả Vô thượng Bồ Đề thì không thể có.
Ông hãy tư duy quán xét thân ông ! Chất cứng là địa, tánh ướt là thủy; hơi ấm là hỏa; khí động là phong, gọi chung đó là tứ đại. Do tứ đại kết tụ thành thân ông. Rồi cái thể tánh giác minh nhiệm mầu cố hữu nó tác dụng vào. Từ đó, thể tánh giác minh bị phân hóa thành ra cái thấy, cái nghe, cái ngửi, nếm, xúc, và cái biết. Và cũng từ đó, con người và môi trường sống của con người trở thành năm lớp ô trược.
A Nan ! Ví như nước trong vốn là thanh khiết bản nhiên; còn bụi, đất, than, tro là những thứ chướng ngại cho những gì trong sáng và thanh khiết ấy. Bỗng dưng có người lấy bụi đất, than, tro làm rơi vào cốc nước sạch thì nước sạch hóa ra vẩn đục. Sự vẩn đục đó gọi là ô trược. Năm lớp ô trược của ông thì cũng như vậy.
KHAI THỊ VỀ NĂM THỨ Ô TRƯỢC
A Nan ! Như ông thấy đó. Hư không (không đại) khắp cùng mười phương thế giới – Cái không và tánh thấy (kiến đại) không thể tách rời. Cái không, không thực thể, tánh thấy, không có giác tri. Hai thứ tác dụng vào nhau vọng thành lớp thứ nhất gọi là Kiếp trược.
Thân ông kết tụ tứ đại làm tự thể. Chính tự thể của ông làm trở ngại, hạn chế cái tánh thấy, nghe, hiểu biết; khiến cho tánh thấy, nghe, hiểu biết tác dụng vào tứ đại của thân ông, vọng thành lớp thứ hai gọi là Kiến trược.
Tâm ông có công dụng nhớ nghĩ suy tư thuộc về phần tri kiến. Tri kiến được biểu hiện qua lục trần, rời trần không có tướng, rời tri giác không có tánh. Tri giác và lục trần tác dụng vào nhau, vọng thành lớp thứ ba gọi là Phiền não trược.
Thân tâm ông thì ngày đêm sanh diệt không ngừng. Cái tri kiến thì muốn lưu mãi ở thế gian, nhưng sức nghiệp của ông thì vọng động đổi dời từ quốc độ này sang thế giới khác. Hai sự kiện mâu thuẫn nhau nhưng lại tác dụng vào nhau vọng thành lớp thứ tư gọi là Chúng sanh trược.
Lại này ! A Nan ! Tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc và biết vốn không sai khác. Do lục trần cản trở vô cớ lại sanh khác nhau. Vì vậy trong thể thì đồng mà dụng lại khác. Đồng và khác mất chuẩn đích. Hai sự kiện tác dụng vào nhau vọng thành lớp thứ năm gọi là Mệnh trược.
DỰA VÀO NHƠN TU MÀ SUY BIẾT QUẢ
SỞ CHỨNG
A Nan ! Nay ông muốn cho tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của ông hợp với bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai thì trước hết phải lựa bỏ những gì là gốc rễ sanh tử để tùy thuận tánh sáng suốt tràn đầy không sanh không diệt và chuyển hóa những tánh hư vọng sanh diệt trở về bản giác tịnh minh. Dựa trên bản giác tịnh minh làm nhơn địa tu hành thì quả địa chứng đắc mới viên mãn vô thượng. Ví như việc làm của người lắng nước. Nước đục đựng trong lu hồ, để yên và yên mãi không chao động, cát tro bụi đất chìm lắng xuống thì nước trong hiện ra. Đây là giai đoạn uốn dẹp khách trần phiền não cũa hành giả cũng y như vậy. Sau đó, gạn bỏ sạch, hết cặn cáo tro bụi… chỉ còn thuần nước trong. Bấy giờ mới gọi là người dứt hẳn căn bản vô minh. Chỉ còn tướng sáng suốt
thuần tịnh thì những biểu hiện của ba nghiệp không còn là bất thiện nữa. Bấy giờ nhứt cử, nhứt động hợp với các đức tánh nhiệm mầu: thường, lạc, ngã, tịnh của Niết bàn Phật.
TRỰC CHỈ
Ngộ, không mê đã là khó. Giải ngộ là một bước tiến khó hơn. Thâm ngộ, cần có quá trình tư duy sâu sắc. Cho đến khi nào chứng ngộ mới đạt mục đích của người tầm tu giải thoát. Ông A Nan nghe pháp đến đây đã thâm ngộ. Ông nhận rõ Như Lai tàng bản thể trùm
chứa hết cõi nước chư Phật mười phương; Như Lai tàng tự nó không có vô minh; nó là cái toàn thể trong sáng bản nhiên thanh tịnh. Dù vậy, ông còn là kẻ được nhà đẹp mà chưa biết cửa để vào. Vì ông chưa là người chủ, đích thực sử dụng ngôi nhà. Điều đó, nói lên: Ông chưa là người Chứng ngộ: Chân tâm minh diệu bản thể Như Lai tàng.
Trong nghĩa quyết định thứ nhất, Phật dạy rõ về sự tác dụng của sắc tâm vô thỉ; khai thị
về năm thứ ô trược (ngũ trược) chỉ dạy về cách tìm hiểu quả vị chứng đắc ở tương lai.
Vấn đề sắc tâm vô thỉ tác dụng lẫn nhau, nhìn cách nào đó thì nó là trừu tượng. Nhưng vận dụng cái nhãn quan vật lý mà nhìn thì người ta nhận thức nó là cụ thể. Địa, thủy, hỏa, phong; không, ngũ đại là vật lý; kiến đại và thức đại là hai hiện tượng mà không hình tượng ở trong bản thể Như Lai tàng. Chúng tác dụng lẫn nhau như ánh sáng mặt trời tác dụng vào cỏ cây để rồi sanh ra chất xanh, hồng, vàng, tím… nuôi dưỡng cỏ cây hoa trái…
Tuy nhiên sự tác dụng của tâm lý và vật lý có khác với vạn vật vô tình trên. Tâm lý có tánh tri giác cho nên con người có thể sanh bất giác. Hiện tượng bất giác ở đoạn kinh này, Phật gọi đó là Ngũ trược (năm thứ vẩn đục).
Người đệ tử Phật, phát tâm tu hành là ai cũng hy vọng ngày công viên quả mãn. Nhưng hy vọng mà không được cầu khấn van xin. Hãy dựa vào sự phát tâm và nhơn tu của mình và đoán biết cái quả sở chứng của mình. Tu nhơn hữu lậu, phát xuất từ ý chí hẹp hòi tiêu cực thì không thể thành quả vô thượng Như Lai. Dựa trên Thể tánh tịnh minh mà tu: sống đúng, sống hợp thì không hy vọng, khỏi cầu xin mà vô thượng bồ đề tự hiện. Như nước trong, trăng hiện, người đào ao khỏi lãng phí hơi sức van vái “ông trăng” !
NGHĨA QUYẾT ĐỊNH THỨ HAI TRẮC NGHIỆM SỰ ĐIÊN ĐẢO Ở CĂN
HAY Ở TRẦN ĐỂ TÌM MỐI MANH MỞ
GÚT
A Nan ! Ông quyết phát tâm bồ đề thì đối với Bồ Tát thừa hãy sanh tâm đại dũng mãnh. Ông hãy xét rõ cội rễ phiền não biểu hiện qua ba nghiệp của ông. Phiền não đó ở đâu đến
? Ai làm ? Và ai chịu ?
A Nan ! Người tu đạo bồ đề, nếu không quán xét cội rễ phiền não thì không biết căn, trần hư vọng điên đảo ở chỗ nào; chỗ còn không biết thì làm sao chế phục để chứng đắc quả
vị Như Lai !
A Nan ! Ông hãy xem người thế gian mở gút, nếu không biết chỗ thắt thì làm sao mở được ? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm ý của ông tự làm mai mối cho giặc, cướp hết của báu trong nhà ông. Cũng vì vậy mà thế giới chúng sanh từ vô thỉ, tự ràng buộc lấy mình, cho nên cái tri kiến của ông không ra ngoài sự vật thế gian.
CĂN CẢNH LÀ NGUỒN GỐC CỦA SỰ
BUỘC RÀNG -
THÁO GỠ BUỘC RÀNG HÃY TÌM MỘT
CĂN THÙ THẮNG NHẤT
A Nan ! “Thế” có nghĩa là thời gian, là quá trình sanh diệt diệt sanh của hiện tượng vạn hữu. “Giới” là không gian, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế gian nhận rõ là: Đông, tây, nam, bắc bốn phương. Thời gian có ba là: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba, hay ba nhân bốn thành con số 12. Nhân lên ba lần thì có con số 12000 để chỉ cho công đức của sáu căn con người tương quan trong thế giới. Tuy nhiên xét chỗ hơn kém thì công đức của sáu căn không nhất thiết đồng nhau.
Xét về nhãn căn thì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên. Cho nên luận về
mắt chỉ được 800 công đức.
Xét về nhĩ căn, lỗ tai có ba đức ưu việt. Viên, Thông và Thường. Luận về nhĩ căn thì có
1200 công đức.
Xét về tỷ căn, lỗ mũi tương tục chỉ có “hai thì”: Thở ra và hít vào. Điểm giao tiếp giữa
“hai thì” gián đoạn. Luận về tỷ căn có được 800 công đức.
Xét về thiệt căn, thì lưỡi có thể phô diễn cùng tột trí thế gian và xuất gian. Ngữ ngôn tuy hữu hạn mà diệu lý diễn đạt vô cùng. Luận về thiệt căn thì có được 1200 công đức.
Xét về thân căn, thân thì biết xúc. Có thể xúc thuận xúc nghịch, nhưng khi hợp thì biết, lúc ly thì không. Luận về thân căn chỉ có 800 công đức.
Xét về ý căn, ý căn thầm lặng mà dung nạp tất cả pháp thế và xuất thế gian mười phương ba đời, thánh phàm không pháp nào không bao dung cùng tột. Luận về ý căn có đủ 1200 công đức.
A Nan ! Ông muốn ngược dòng sanh tử hãy xét sáu căn ông hiện thọ dụng. Cái nào hợp, cái nào ly, căn nào sâu, căn nào cạn, căn nào viên thông, căn nào không viên thông. Nếu khai ngộ được một căn viên thông thì đảo ngược tất cả dòng nghiệp vô thỉ. Đối với hiệu quả tu hành, bấy giờ một ngày bằng một kiếp.
Tôi đã chỉ rõ cho ông: Sáu căn, căn nào cũng trong sáng và đều có số lượng công năng. Tùy ông chọn lựa. Thích hợp căn nào tôi sẽ hướng dẫn cho ông để ngày thêm tăng tiến.
Mười phương Như Lai, căn, trần, thức, 18 giới đều là công cụ để viên mãn vô thượng bồ đề. Căn cơ trí tuệ còn non nớt, ông cần đi sâu tu tập một căn. Một căn thanh tịnh thì sáu căn đồng thời được tháo mở hoàn toàn thanh thoát.
SẮC KHÔNG TÁC DỤNG LẪN NHAU, PHẢN ÁNH RA CĂN TRẦN THÀNH NĂNG SỞ
Bạch Thế Tôn ! Ông A Nan thưa. Vì sao đi sâu vào một căn lại có thể khiến cho sáu căn
đồng thời thanh tịnh ?
Phật bảo: A Nan ! Ông được quả Tu Đà Hoàn, song tập khí vô thỉ còn thiếu, chưa thể một lúc tháo gỡ những lớp vô minh: sanh, trụ, dị, diệt.
Ông hãy xét kỹ, sáu căn hiện tiền là một hay là sáu ? Nếu bảo là một thì lỗ tai sao không thấy; con mắt sao không nghe; đầu sao không đi; chân sao không nói ? Còn nếu quyết định cho là sáu thì hiện tôi đang dạy cho ông pháp môn tu hành, vậy trong sáu căn của ông, căn nào tiếp thu, căn nào lãnh thọ ?
Ông A Nan thưa: Tôi dùng lỗ tai nghe lời Phật dạy.
Phật bảo: Ông dùng lỗ tai nghe, vậy thì lỗ tai ông tự nghe nào dính dáng gì đến thân với miệng mà miệng ông thì hỏi nghĩa lý, thân ông đứng dậy tỏ vẻ kính vâng ? Lấy đó mà suy thì căn không phải một cũng không phải sáu. Mà cũng một cũng sáu. Tại vì sự chấp mê đảo điên vô thỉ cho nên cái thể viên minh kia lại sanh ra một, sanh ra sáu. Ví như hư không tham hợp với sự vật. Lu, bình, lọ, cốc, do hình trạng đồ vật khác nhau mà hư
không thành ra sai khác. Trừ bỏ đồ vật ấy đi thì người ta gọi hư không là một. Sự thật, hư
không kia không vì ông mà thành đồng hay khác; huống nữa lại gọi là một hay không phải một !
Sáu căn hay biết của ông cũng vậy.
Do hai thứ sáng và tối hiển bày lẫn nhau, cái tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên, phát ra cái gọi là thấy. Cái thấy phản ánh ra gọi là sắc. Cơ quan tiếp thu sắc được gọi là nhãn căn. Nhãn căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình dáng trông như trái nho.
Do hai thứ động và tĩnh đối chọi nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là nghe. Cái nghe phản ánh ra gọi là tiếng (thanh trần). Cơ quan tiếp thu tiếng được gọi là nhĩ căn. Nhĩ căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình dáng trông như cái lá sen non.
Do hai thứ thông và bít phát hiện lẫn nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên, phát ra cái gọi là ngửi. Cái ngửi phản ánh ra gọi là hương. Cơ quan thu nạp hương được gọi là tỷ căn. Tỷ căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành hình dáng trông như hai móng tay duỗi xuống.
Do hai thứ lạt và vị xâm lấn lẫn nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là nếm. Cái nếm phản ánh ra gọi là vị. Cơ quan nhận thức vị được gọi là thiệt căn. Thiệt căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành hình dáng trông như nửa vành trăng.
Do hai thứ hợp và ly cọ xát nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là biết. Cái biết phản ánh ra gọi là xúc. Cơ quan nhận biết xúc được gọi là thân căn. Thân căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình thể trông như cái trống cơm.
Do hai thứ sanh và diệt tiếp nối nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng với bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là biết. Cái biết phản ánh ra gọi là pháp. Cơ quan tiếp thụ pháp được gọi là ý căn. Ý căn vốn là tứ đại thanh tịnh, biểu hiện qua khái niệm và tư duy, tựa hồ như chất đậu hủ non (bộ óc).
VỌNG NĂNG SANH SỞ LÀM HẠN CHẾ
TÁNH GIÁC MINH. LỤC CĂN TOÀN KHUYẾT
TRI KIẾN VẪN KHÔNG THÊM BỚT
A Nan ! Sáu căn của ông bị hạn chế là bởi “tánh giác minh” bị trở thành “minh giác”. Do vậy, tánh giác minh mất phẩm chất trong sáng bản nhiên, tác dụng với các vọng mà phát ra hay biết. Hiện nay ông rời tối rời sáng thì không có cái thấy. Rời động và rời tĩnh thì không có tánh nghe. Rời thông và bít thì không có tánh ngửi. Không vị không nhạt thì không có cái nếm. Không hợp không ly thì không có tánh xúc. Không diệt không sanh thì cái nhận thức không có điều kiện sanh.
Động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, bít, sanh, diệt, tối, sáng, đó là 12 tướng hữu vi. Ông đừng chạy theo sự chi phối cuốn lôi của chúng. Tùy nghị lực của ông, nhận xét tìm ưu thế của một căn, chặt nhổ gốc rễ vô minh phiền não, xoay tánh giác minh trở về vị trí bản nguyên minh diệu của nó. Phát huy thế mạnh trừ khử mê mờ, làm chủ được một căn thì năm căn còn lại sẽ được thanh tịnh giải thoát hết.
Đến lúc không cần có tiền trần mà tri kiến vẫn phát khởi, bấy giờ tri kiến giác minh không lệ thuộc nơi căn, chỉ gá vào căn mà phát ra nhận thức trong sáng. Do đó sáu căn bấy giờ có thể dùng thay lẫn nhau mà không có gì trở ngại.
A Nan ! Ông có biết chăng ! Trong hội này ông A Nan Luật Đà không có mắt mà vẫn thấy. Thần nữ Căn Già không có mũi mà nhận biết hương. Ông Kiều Phạm Ba Đề lưỡi dị tướng (lưỡi trâu) mà biết vị.
A Nan ! Nếu các căn của ông đều được giải thoát thì tánh giác minh tự phát ra. Chừng đó, phù trần căn và hiện tượng vạn hữu thế gian đối với ông cũng như băng giá gặp nước sôi. Sự nhận thức của ông bấy giờ trở thành Vô thượng Chánh Biến Tri Giác.
TRỰC CHỈ
Lời dạy của Phật có ý nghĩa trọng đại trong nghĩa quyết định thứ hai là: nên xét rõ nguyên nhân của phiền não từ đâu đến ? ai làm ? và ai chịu ?
Phật dạy, khi quán chiếu kỹ càng thì hành giả sẽ thấy được sự điên đảo hư vọng của căn và trần. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý không khéo chúng sẽ là kẻ trung gian môi giới cho giặc cướp vào nhà tước đoạt hết gia bảo công đức của chúng ta. Người không phát tâm tu thiện nghiệp, không để tâm quán chiếu tư duy thì mỗi căn như một cái gút. Phiền não vô minh ngày ngày cứ cột thắt mãi vào. Càng thắt cái gút càng to thêm. Tâm trí dày vò đau khổ ngày thêm chồng chất. Muốn mở gút hãy tìm gút lỏng mà mở trước nó đi. Mở được một gút thì những gút còn lại sẽ được giải thoát hết. Sáu căn của con người chính là sáu cái gút. Con người thường cột thắt mãi cho nên cuộc sống nhiều phiền não khổ đau. Đừng thắt gút tức là không có ai cột thì còn ai là người chịu trói ?
Sáu căn của con người vốn chẳng có tội mà còn có thể làm nên nhiều công đức thiện. Thiện hay ác không phải lỗi ở sáu căn. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, kẻ xuất ly tam giới, người được quả Vô thượng Bồ Đề sáu căn của các Ngài vẫn còn nguyên đó !
Vấn đề hơn kém bởi ở chỗ:
- “Tri kiến lập tri” là nguyên nhân của vô minh vô thỉ. Còn “tri kiến vô minh” là gốc rễ
của Niết bàn Bồ Đề Vô Thượng.
Con người với không gian: đông, tây, nam, bắc, với thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai, gắn bó mật thiết với nhau. Sự tác động qua lại của không gian và thời gian lại tương quan mật thiết với ba thứ thế gian là: ngũ ấm thế gian, khí thế gian và chánh giác thế gian. Do vậy, lấy 4 x 3 = 12 x 10 = 120 x 10 = 1200. Con số 1200 qua ba lần nhân, đó là con số biểu trưng 1200 công năng của mỗi căn có thể có. Tuy nhiên, nhận xét tinh tường, trong đó có những căn ưu mà cũng có những căn khiếm khuyết. Vì vậy, người đệ tử Phật tu tập diệt trừ phiền não, nên chọn căn ưu việt mà chinh phục vô minh thì sự thành công chóng hơn những căn kém yếu.
Ông A Nan còn thắc mắc vì sao tháo gỡ một căn thì sáu căn đồng thời thanh tịnh, Phật dạy: Sáu căn vốn không phải sáu mà nói sáu vậy thôi. Lẽ ra phải nói là một; nhưng một không phải một, nên Như Lai tùy thuận chúng sanh mà nói sáu. Bởi lẽ giản dị là: nếu sáu là sáu sao mắt thấy cốc sữa ngon, tay bưng đưa vào miệng uống ? Nếu là một sao tai nghe nhạc, thân máy động, chân nhảy nhót, miệng ơ ớ hát theo ?
Vấn đề căn trần cũng chỉ là hiện tượng nhân duyên sắc không tác dụng vào nhau mà
hình thành. Tất cả đều: nhơn như thị, duyên như thị, quả như thị, báo như thị và pháp nhĩ
như thị, đừng hỏi tại sao !
Khi nào con người làm chủ được sáu căn thì hiện tượng vạn hữu trong thế gian này vẫn còn y nhiên đó, nhưng đối với ta như đã tiêu tán hết tự bao giờ !
Người được quả vô thượng Bồ đề chỉ là người giác ngộ chân lý trọn vẹn, là người có cái nhìn hiện tượng vạn pháp bằng Tri kiến vô kiến vậy thôi !
PHẬT BẢO ĐÁNH CHUÔNG ĐỂ
NGHIỆM XÉT
TÁNH NGHE CỦA NHĨ CĂN LÀ THƯỜNG TRÚ
ÔNG A NAN NGHI NGỜ:
KIẾN VĂN GIÁC TRI KHÔNG CÓ TỰ
THỂ
Bạch Thế Tôn ! Ông A Nan thưa. Theo lời Thế Tôn dạy về quả sở chứng có những bảy thứ tên gọi: Chân như, Bồ đề, Niết bàn, Phật tánh, Am ma la thức, Không Như Lai tàng, Đại viên cảnh trí, dù tên gọi khác nhau nhưng thể tánh đều thanh tịnh viên mãn, rắn chắc như kim cang vương, thường trú như hư không bất hoại.
Bạch Thế Tôn ! Các tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết rời các tướng tối, sáng, động, tĩnh, thông, bít, nhạt, mặn, hợp, ly, cho đến như tâm niệm tư duy rời tiền trần không có cái nào còn tự thể. Vậy thì lấy cái gì làm nhân tu hành để cầu Vô Thượng Giác rắn chắc như kim cang vương, thường trú bất hoại như hư không ấy ?
Xin Phật rũ lòng đại từ khai thị chỗ mê chấp cho tôi !
KHAI THỊ TÁNH NGHE CỦA NHĨ
CĂN LÀ THƯỜNG TRÚ
Phật bảo: A Nan ! Nay tôi đem việc thông thường trước mắt, phương tiện tháo gỡ mối nghi của ông. Bấy giờ Phật bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan rằng:
A Nan ! Ông có nghe gì không ?
- Có nghe. Ông A Nan và đại chúng đồng thưa. Giây lâu tiếng chuông hết kêu. Phật lại hỏi:
A Nan ! Ông nghe chăng ?
- Không nghe, bạch Thế Tôn !
La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa Phật nói: Ông có nghe chăng A Nan !
- Có nghe, bạch Thế Tôn !
Phật hỏi: Thế nào thì ông có nghe ? Thế nào thì ông không nghe ? Ông A Nan và đại chúng đồng bạch Phật.
Có tiếng chuông kêu thì chúng tôi được nghe, hồi lâu tiếng dứt, âm vang không còn thì không còn nghe nữa.
Đức Phật lại bảo ông La Hầu La đánh chuông rồi hỏi tiếp: Theo ông hiện nay có tiếng không ?
- Có tiếng, bạch Thế Tôn ?
Hồi lâu, tiếng chuông dứt bặt, Phật lại hỏi ? Hiện giờ có tiếng không ?
- Không tiếng, bạch Thế Tôn !
Phật bảo: Thế nào ông gọi là có tiếng; còn thế nào thì ông gọi là không tiếng ? Ông A Nan và đại chúng đồng thưa:
Có đánh chuông, tiếng chuông ngân vang thì gọi là có tiếng; giây lâu tiếng hết, âm vang không còn thì gọi là không tiếng.
Phật bảo: ông A Nan và đại chúng: Sao hôm nay các ông nói lộn xộn điên đảo như thế ?
Đại chúng và A Nan bạch Phật:
Vì đâu Phật bảo chúng tôi lộn xộn và điên đảo ?
Phật dạy: Tôi bảo về cái nghe thì các ông nói là nghe ! Tôi hỏi về tiếng thì các ông cũng nói là tiếng ! Chỉ có cái nghe và cái tiếng mà các ông trả lời không nhất định, còn không phải điên đảo lộn xộn là gì ?
A Nan ! Biết đó, biết không là do có tiếng hay không có tiếng. Có tiếng thì nghe động, không tiếng là nghe tĩnh, chứ không phải không tiếng, tánh nghe không còn. Nếu tánh nghe không còn, thì lấy cái gì biết là không tiếng ?
A Nan ! Cái tiếng đối với tánh nghe tự có sanh có diệt; nhưng không phải vì sự sanh hay diệt của tiếng mà tánh nghe của ông tùy có tùy không. Ông còn lộn lạo lầm cái tiếng mà cho là cái nghe, thảo nào chẳng mê mờ cái viên thường mà cho là đoạn diệt ! Ông không nên lầm tưởng rời các thứ động, tĩnh, tối, sáng, thông, bít… là cái nghe… không còn.
Ông nên hiểu rằng: Tánh nghe không những “thường hằng” trong khi thức mà nó “thường hằng” cả trong lúc ông ngủ sau sưa !
Chúng sanh từ vô thỉ đến nay, theo sự lôi cuốn của sắc, thanh, theo vọng niệm mà lưu chuyển, không hồi quang phản chiếu cái bản tánh thanh tịnh diệu thường, bỏ sót mất tánh thường chỉ buông xuôi theo dòng sanh diệt ! Do vậy đời đời sống trong tạp nhiễm mà phải luân chuyển khổ đau. Nếu biết rời bỏ những cái sanh diệt, giữ lại tánh chân thường sáng suốt nhiệm mầu thì lục căn, lục trần, lục thức tiêu vọng tại chỗ. Bởi vì trần là cái tướng của vọng tưởng; cấu là vọng tình phân biệt của con người. Xa lìa hai thứ trần cấu thì pháp nhãn của ông tức thì trong sáng; cái nhận thức của ông bấy giờ là nhận thức của con người Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác đồng với chư Phật mười phương ba đời vậy.
TRỰC CHỈ
Ông A Nan còn ngại ngùng rằng: Cái quả sở chứng có nhiều, nhưng quả nào cũng là chơn là thường là bất hoại. Còn tánh thấy, nghe… vốn là vọng, lấy vọng làm dữ kiện tu nhân thì ông sợ rằng: hoa đốm không thể nào kết nụ thành ra quả được ! Sự ngại ngùng ấy nói lên tầm thấy biết rộng xa của ông A Nan, là điều đáng khuyến khích. Tuy nhiên với tri kiến đó, đối với bậc đại trí, thể nhập Thủ Lăng Nghiêm, chỉ là cái thấy biết của con người biết một mà chẳng biết hai.
Bằng một sự kiện giản đơn trước mắt, Phật bảo La Hầu La đánh chuông để trắc nghiệm tánh nghe của nhĩ căn là “thường trú” thì cái “thấy biết rộng xa” của ông A Nan không còn là việc đáng để lòng và cần khuyến khích.
“Tiếng không, không phải tánh nghe không có. Tiếng có, không phải tánh nghe mới sanh”. Đó là vấn đề thực tiễn mà ai cũng có thể trắc nghiệm được ở bản thân mình. Và đấy, Phật chỉ mới đề cập ở một đức thường. Thực tế người ta còn trắc nghiệm được cả đức viên và đức thông của nhĩ căn mà đức Phật sẽ dạy tiếp ở một đoạn kinh sau.
Nói nhĩ căn, mà người đệ tử học Phật còn phải tư duy ôn lại công dụng của sáu căn. Trong sáu căn dù có ưu có khuyết không đồng đều nhưng không có căn nào rời trần mà mất đi công năng thanh tịnh và thường trú của chính mình !

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Trân trọng cám ơn!