-->

2011-08-19

Kinh Pháp Hoa-Phẩm 1-11




DUYÊN KHỞI TỰ
Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là một bộ kinh được lưu truyền sâu rộng ở các nước Phật giáo theo hệ tư tưởng Đại thừa. Ở Trung Quốc, vào đời Diêu Tân khoảng cuối thế kỷ thứ ba, Ngài Cưu Ma La Thập, một nhà sư người Ấn dịch từ Phạn văn ra Hán văn với nhan đề Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. sư Quách Hoàng, sư Trúc Pháp Hộ dịch nhan đề là Chánh Pháp Hoa Kinh. Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam những nước cùng một khuynh hướng ái mộ tư tưởng Đại thừa đề tôn trọng bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập.
Ở Việt Nam khắp tòng lâm, tự viện, am thất chỗ nào không có kinh Pháp Hoa gần như chỗ đó được như xem như thiếu Phật. Xem thế đủ biết “diệu lực” của kinh Kinh Pháp Hoa, đức tin của người Phật tử đối với kinh Pháp Hoa thâm hậu biết chừng nào!
Ở Việt Nam ta có hai bản dịch từ Hán văn ra Việt văn sớm nhất. Bản dịch của ông Đoàn Trung Còn xuất bản vào năm 1936. Bản dịch này, ở vào thời đại bấy giờ kinh Pháp Hoa chưa được phổ biến nhiều. Đến năm 1948 bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh ra
đời, do Liên Hải Phật Học Đường xuất bản, có lẽ do thiên thời, địa lợi, nhơn hòa, vì mầm chấn hưng Phật giáo được manh nha từ thời điểm ấy cho nên bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh được phổ biến rông, tái bản nhiều lần và truyền bá, thọ trì đọc tụng hầu khắp tự viện, tòng lâm cho đến ngày nay.
Vấn đề: Vì sao đồng bào Phật tử ham tụng kinh Pháp Hoa? Có sự linh nghiệm, cảm ứng thế nào? Tôi xin phép miễn bàn về việc đó.
Riêng tôi xin dâng hết tâm thành lên Đức Phật, mà khẳng định rằng: “Tụng kinh giả, minh Phật chi lý” nghĩa là: Đọc kinh cốt để tìm hiểu giáo lý Đức Phật muốn dạy gì cho mình.
Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, người có chủng tánh Đại thừa, có được ít nhiều tuệ nhãn, nhìn vào như nhìn hạt ngọc kim cương. Tùy góc đứng khác nhau mà ngọc kim cương ảnh hiện màu sắc khác nhau, nhưng màu sắc nào cũng đều rực rỡ. Tùy khả năng tư duy tu của hành giả mà nhận thức cái “diệu nghĩa” của kinh một khác. Bởi lẽ đó, kinh Diệu Pháp Liên Hoa xuất hiện ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam đến nay đã ngót hai ngàn năm mà sức sống càng mạnh và rông. Các tiền bối trong Phật giáo đã đầu tư trí tuệ,
ra sức phát huy cái “diệu nghĩa”, “huyền nghĩa”, “thông nghĩa”, “mật nghĩa” của kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà hình như chưa có vị nào có thể cho là mình bằng lòng trọn vẹn. Bởi kinh Pháp Hoa là kinh: “Duy hữu Phật dữ Phật nãi năng tri chi” (chỉ có Phật với Phật mới hiểu hết cái diệu lý của kinh). Tuy nhiên, mỗi ngài đều có cái tâm đắc, cái tuệ nhãn riêng để nhận thức tương đương với sự thâm ngộ và thể nhập của mình. Mỗi ngài viết ra thành tác phẩm giữ lại làm tài liệu nhằm ghi lại cái kết quả đó. Còn vấn đề đem lại lợi lạc ít hay nhiều cho tăng tín đồ Phật giáo, thì còn tùy thuộc nhân duyên, căn cơ và chủng
tánh nữa.
Nhìn lịch sử nghiên cứu sớ thích giảng giải kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đã thấy trong quá khứ:
• Pháp Hoa Văn Cú của Thiên Thai Trí Giả Đại Sư
• Pháp Hoa Nghĩa Sớ của Sa môn Cát Tạng
• Pháp Hoa Du Ý của ngài Khuy Cơ
• Pháp Hoa Huyền Tán của ngài Nguyên Hiểu
• Pháp Hoa Tông Yếu của ngài Minh Chánh
• Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Cư sĩ Chánh Trí và sinh tiền:
• Pháp Hoa Cương Yếu của Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Nhìn chung, sự nhận thức và triển khai của các Ngài, mỗi người mỗi vẻ, vẻ nào cũng có cái hay cái diệu riêng của nó.
Tôi một hậu học là một bần tăng cô lậu, có chút ít quá trình lạm dụng bút nghiên, lợi dụng cái vốn của những bậc Thầy tôn kính của tôi: Hòa Thượng Thượng Trí hạ Tịnh, Hòa Thượng Thượng Thiện hạ Hòa, Hòa Thượng Thượng Thiện hạ Hoa v.v…đã dày công uốn nắn giáo dục tôi và truyền thọ cho tôi phần gia bảo vô giá mà các ngài đã thừa kế sự nghiệp Như Lai để lại.
Tâm đắc nguồn tư tưởng liễu nghĩa Thượng thừa trác tuyệt của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, theo sở ngộ của mình tôi viết ra những tinh hoa thâm nghĩa ở sau mỗi phẩm của kinh văn đã được tóm lược và đặt cho giáo án này cái nhan đề:
Gọi là “giáo án” hay “giáo trình” cũng vậy, vì những kinh luận tôi biên soạn để triển khai, giảng dạy cho những người hậu học chớ không nhằm phục vụ cho tụng đọc, cho nguyện cầu để được phước. Bởi vì, theo lời Phật dạy; người được phước phải là người chế ngự những thói hư tật xấu, những bất thiện nghiệp của thân, khẩu, ý của mình.
Ngoài lý tưởng thiêng liêng đó, tôi hy vọng đền đáp phần nào công ơn của những bậc thầy tôn kính của tôi, đã lao công khổ trí đào tạo ra tôi. Tôi xúc động bùi ngùi khi ôn lại lời nhắc nhở, thiết tah của tổ Qui Sơn rằng:
“Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp, tinh sưu nghĩa ly truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức.
Thời quang diệt bất hư khí, tất tu dĩ thử phò trì, trụ chỉ oai nghi tiện thị tăng trung pháp thí. Khởi bất kiến ỷ tòng chi cát, thượng tủng thiên tầm, phụ thác thắng nhơn phương năng quảng ích” ?
Có nghĩa là: Nếu mình chưa phải là bậc thượng lưu, vượt thẳng bên kia bờ giác thì hãy để
tâm nơi giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương, tiếp dẫn hậu lai, đó là cách trả ơn cho Phật tổ. Ngày giờ không nên bỏ luống, phải sử dụng nó trong việc rèn luyện thân tâm. Khi đi cũng như lúc ở, sống đúng oai nghi để làm kho tàng đựng pháp trong chư tăng, há chẳng thấy dâu sắn nương quấn cội tòng, nhờ có thắng duyên mà lên cao được đó sao?
Âm vang của Tổ giục giả tôi tinh tấn làm cái việc tuy nhẹ bỗng mà đòi hỏi một nội lực khá nặng nề nầy.
Viết tại HUỲNH MAI TỊNH THẤT Mùa Xuân năm Giáp Tý 1984 DL Pháp sư THÍCH TỪ THÔNG Kính đề
TIỂU DẪN
Bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được gọi với cái tên giản lược là kinh Pháp Hoa. Để phân biệt với các kinh thuộc hệ tư tưởng Tiểu thừa, gọi là Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
Diệu Pháp Liên Hoa , đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sinh mà mọi người thường không hay không biết. Cái Tri Kiến Phật ấy lúc thành Phật không phải nó mới sanh ra, lúc còn là phàm phu nó tiềm tàng, ẩn mật mà không hề sút giảm hao bớt tí nào. Trên bình diện Tri Kiến Phật , chúng sanh và Phật, không hề có sự hơn kém thấp cao.
Với Phật nhãn, nhìn qua lăng kính Bát nhã Ba la mật thì “Tâm, Phật và chúng sanh” dù tên gọi có ba, mà thực chất không có phạm trù đơn vị riêng rẽ.
Cái ví dụ Liên Hoa, đức Phật vận dụng để chỉ bày một cách kín đáo, về Phật chất, về khả năng thành Phật của mọi người. Rằng hoa sen nở toàn diện, hoa sen nở 70, 80 phần trăm; hoa sen vừa trổi lên khỏi nước; hoa sen đang trong nước; cho đến hoa sen còn lủi dưới bùn, dù mức độ lớn nhỏ khác nhau, thời gian sanh trưởng không đồng mà cái tính đặc thù của hoa thì y nhau không hề sai khác. Gương, hạt ở ngay trong cánh nhụy và cánh nhụy bao trùm lấy gương hạt. Mượn đức tánh nầy, đức Phật “giới thiệu” cho mọi chúng sanh biết, rằng trong cái “nhân phàm phu” của các vị, còn có cái “quả Phật chất” ở ngay trong các vị, các vị chớ có khinh mình.
Hoa sen từ bùn nhơ nước đục mà ngoi lên, nhưng không vì nước đục bùn nhơ mà khiến cho hoa sen phai nhạt sắc hương thanh thoát của nó. Với đặc tính đó, đức Phật chỉ dạy: “Hỡi tất cả chúng sanh, các vị hãy vươn lên, tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Các vi hoàn toàn đủ tiêu chuẩn thành Phật, dù các vị đang ở trong hoàn cảnh “Ngũ trược ác thế” của cõi nước đục “Ta bà”….
Phật chỉ là một hoa sen nở trước, nở toàn hiện, hiển bày cánh, nhụy, gương, hạt một cách viên mãn, vậy thôi. Phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát đều là sen tất cả. Tất cả chúng sanh không nên tự khinh mình ! Trong các vị, ai ai cũng đều sẵn có Tri Kiến Phật.
Cái “Đại sự nhân duyên” xuất thế của Như Lai nhằm:
• Giới thiệu Tri Kiến Phật cho chúng sanh
• Chỉ rõ Tri Kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh biết
• Hướng dẫn chúng sanh hiểu kỹ về Tri Kiến Phật của mình
• Động viên chúng sanh sống đúng và sống hợp với Tri Kiến Phật mà mình vố có.
Do vậy, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, tất cả chúng sanh sẽ thành Phật. Và tư tưởng “thuần viên độc diệu” của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Thế Tôn ta với âm giọng hải triều tuyên bố:
“Tất cả chúng sanh đã thành Phật”
Pháp sư: THÍCH TỪ THÔNG Khể Thủ
PHẨM 1
“TỰA”
Kinh nầy tôi nghe, một lúc nọ đức Phật trụ ở núi Kỳ xà quật cùng với số chúng tụ họp xung quanh Phật rất đông, gồm đủ các thành phần:
Tỳ kheo đắc quả A la hớn 12.000 người. Bậc hữu học và vô học 2.000 người. Tỳ kheo ni
6.000 người. Bồ tát 80.000 người. Trời Đế Thích và quyến thuộc 20.000 người. Tứ Đại
Thiên Vương và quyến thuộc 10.000 người. Trời Tự Tại và Đại Tự Tại cùng quyến thuộc
30.000 người. Phạm Thiên Vương và quyến thuộc 12.000 người. Tám vị Long Vương và quyến thuộc; A tu la vương và quyến thuộc; Ca lầu la vương và quyến thuộc nhiều trăm ngàn người. Có vua A xà thế, con bà Di đề hi cùng quyến thuộc tùy tùng câu hội…
Đại chúng đều đãnh lễ cúng dường tán thán Phật, rồi lui ngồi qua một phía. Bấy giờ đức Thế Tôn vì chư đại Bồ tát nói kinh Đại Thừa tên là:
Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm
Nói kinh xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm không lay động.
Chư Thiên vui mừng rải thiên hoa cúng dường Phật, hàng Nhân Thiên tán thán chấp tay một lòng chiêm ngưỡng đức Như Lai.
Lúc bấy giờ, từ tướng lông trắng chặng giữa đôi mày Phật, phóng ra ánh hào quang chiếu khắp mười vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông. Trên từ cõi sắc cứu cánh, dưới suốt ngục A tỳ. Chúng sanh trong sáu đường đều thấy rõ lẫn nhau.
Lại thấy chư Phật ở các quốc độ đang nói pháp và được nghe pháp của các Phật rõ ràng. Cũng thấy các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, tu hành đắc đạo. Thấy các Bồ tát thực hành lục độ trong việc tự lợi lợi tha tinh tấn trên đường Bồ đề. Lại thấy có đức Phật nhập Niết bàn, có nơi xây dựng tháp tôn thờ xá lợi….
Bồ tát Di lặc và đại chúng đều lấy làm lạ trước điềm lành này. Thay mặt cho tất cả Bồ tát, Ngài Di Lặc cầu xin Đại Trí Văn Thù là bậc xuất chúng, giải thích cho đại chúng về những sự kiện trên.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi giải đáp rằng: “Theo chỗ tôi biết thì Thế Tôn nói pháp lớn, tuông mưa pháp lớn, thổi còi pháp lớn”. Bồ tát Văn Thù nói tiếp: “Tôi từng ở trong vô lượng Phật quá khứ đã thấy điềm lành này. Chư Phật phóng hào quang như thế, sau liền nói
“pháp lớn”. Cho nên tôi biết chắc rằng, hôm nay Phật vì muốn cho chúng sanh được nghe biết “pháp nhiệm mầu” mà tất cả người đời khó tin cho nên hiện ra điềm lành ấy…..”
Bồ tát Văn Thù kể tiếp: “Cách vô lượng A tăng kỳ kiếp về trước có đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh đủ mười đức hiệu diễn nói chánh pháp, ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành, nghĩa lý sâu xa, trước sau không mâu thuẫn, thuần nhất không tạp. Phật vì người Thanh văn thừa nói pháp “Tứ Đế” cầu ra khỏi sanh, già, bệnh, chết được cứu cánh Niết bàn. Vì hạng cầu quả Duyên giác nói pháp “Thập nhị nhân duyên”, vì hàng Bồ tát nói pháp “Lục ba la mật” khiến cho chứng quả Vô thượng Bồ đề, thành tựu Nhất thiết chủng trí. Kế tiếp có 20.000 đức Phật cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh và cùng một họ Phả loa đọa. Pháp của tất cả chư Phật nói ra ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành.
Đức Phật rốt sau vốn là một nhà vua, lúc chưa xuất gia có tám vị vương tử tên là Hữu Ý, ThiệnÝ, Vô Lượng Ý, Bảo Ý, Tăng Ý, Trừ Nghi Ý, Hướng Ý, và Pháp Ý. Nghe vua cha xuất gia tu hành thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều bỏ ngôi xuất gia theo.
Thuở đó, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng như đức Phật Thích Ca hiện nay, nói kinh Đại thừa Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói xong liền nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm không động.
Hàng Chư Thiên hân hoan rải hoa cúng dường. Đại chúng vui mừng chấp tay nhìn Phật với tất cả lòng kính mộ. Lúc bấy giờ từ tướng lông trắng, chặng giữa đôi mày Như Lai phóng ra ánh hào quang soi suốt 18.000 thế giới ở phương Đông, y như điềm lành hiện nay mà đại chúng cùng đang thấy.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai từ chánh định dậy, vì Bồ tát Diệu Quang và tám trăm tử đệ mà nói kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, trải 60 tiểu kiếp, chẳng rời chỗ ngồi. Người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến 60 tiểu kiếp thân tâm không động, không mỏi mệt và xem thời gian ấy mau chừng như một bữa ăn.
Sau 60 tiểu kiếp nói kinh, trước chúng hội, Sa môn, Bà la môn, Thiên long, Ma Phạm, Nhơn phi nhơn, đức Nhật Nguyệt Đăng Minh tuyên bố: hôm nay vào nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Trước khi vào Niết bàn, Phật thọ ký cho Bồ tát Đức Tạng, trước đại chúng rằng: Đức Tạng Bồ tát nầy sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Thân Như Lai đủ mười đức hiệu, thọ ký xong, đúng như lời tuyên bố đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn vào lúc nửa đêm.
Sau Phật diệt độ, Bồ tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải tám mươi tiểu kiếp, vì người diễn nói và dạy bảo cho tám vị vương tử ở vững trong đường Chánh đẳng Chánh giác. Tất cả tám vị lần lượt đều thành Phật và vị Phật chót hiệu là Nhiên Đăng.
Trong tám trăm đệ tử của Bồ tát Diệu Quang có một người tên là Cầu Danh. Sỡ dĩ người nầy có cái tên nầy là vì còn tham ưa danh lợi, tuy có đọc tụng kinh điển nhiều mà không thuộc rành. Dù vậy, đó cũng là một “căn lành” đã từng “gieo giống Phật” trong vô lượng ngàn muôn ức kiếp.
Sau khi kể lại câu chuyện trên, Bồ tát Văn Thù kết luận: Bồ tát Diệu Quang lúc đó đâu phải người nào lạ, chính là ta đây, còn Cầu Danh Bồ tát lúc đó, nay chính là Di Lặc ngài đấy.
Hôm nay đức Phật Thích Ca phóng quang hiện điềm giống hệt xưa kia, tôi nghĩ là đức Phật cũng sẽ nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.
THÂM NGHĨA
Học kinh Phật các tiền bối thường hay quan tâm đoạn mở đầu. Các ngài cho rằng ở phần thông tựa phải có đủ những yếu tố “Lục Chủng Thành Tựu” thì mới được xem là chánh thống kinh Phật nói. Thí dụ:
“Kinh Pháp Hoa này, tôi nghe một thời nọ, đức Phật trụ tại Linh Thứu Son, cùng với
Tăng Ni đại chúng cả thảy có bao nhiêu ngàn người”.
“Lục Chủng Thành Tựu” hay Lục trùng chứng tín” tên gọi khác nhau, nhưng tiền bối quan niệm: Kinh Phật nói thì phải hội đủ những điều như thế.
Thật lý mà suy: muốn thành tựu một việc gì cần phải hội đủ yếu tố của việc đó. Điều đó là tất nhiên; nhưng nếu là kẻ gian, họ đem “Lục Chủng Thành Tựu” thay đổi cái “địa danh” na ná, phịa ra tên “kinh mới” cùng một số đại chúng tương tợ….cho vào phần đầu…cái quyển kinh sách “dỏm” của họ. Điều đó, nếu người ta muốn làm thì chẳng khó khăn gì. Vì vậy đọc kinh điển Phật với tôi vấn đề Văn nhi Tư. Tư nhi Tu mới đem lại cho người Phật tử cái “trí tuệ” đích thực của chính mình.
Trước khi nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật vì các hàng Bồ tát, nói kinh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Việc làm nầy của Phật, có dụng ý sâu xa. Có nghĩa là muốn học hiểu kinh Pháp Hoa, phải “chuẩn bị tư tưởng” qua kinh Vô Lượng Nghĩa. Nói cách khác, có ý thức trong sự tiếp thu tốt về chân lý “thuần viên độc diệu” đệ nhất nghĩa của kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Kinh Vô Lượng Nghĩa, nhưng không được hiểu rằng kinh nầy có nhiều nghĩa. Hiểu thế là sai. Vô Lượng Nghĩa ở đây phải hiểu là không cắt nghĩa được, cắt nghĩa kiểu nào, ngôn từ khéo léo đến đâu, nói hoài, nói mãi, nói “vô lượng ngữ ngôn” thậm chí “vô lượng số
kiếp” cũng không diễn đạt thấu đáo được cái chân lý của ý kinh Phật dạy, ngoại trừ
người “thể nhập”.
“Như nhơn ẩm thủy lãnh noãn tự tri”. Cốc nước đó, nóng hay lạnh, chỉ có người uống mới biết cái chừng độ của nó.
Người đệ tử Phật, phải hiểu Vô Lượng Nghĩa qua tinh thần tu học đó.
Sau đây, lời Phật dạy cho Bồ tát Đại Trang Nghiêm và các Bồ tát phải tu học về giáo lý
Vô Lượng Nghĩa của Đại thừa.
Phật bảo: Này Đại Trang Nghiêm ! Bồ tát muốn tu học pháp môn Vô Lượng Nghĩa thì phải nên quán sát: Hết thảy các pháp, từ trước tới nay, tánh tướng thường rỗng rang vắng lặng, thanh tịnh bản nhiên, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt, không đến, không đi, không một, không khác, không thường, không đoạn, không ra, không vào, không lùi, không tiến….Ví như hư không, không có cái hai. Chỉ vì chúng sanh hoạnh chấp. Chấp lấy cái giả dối rồi cho là cái nầy, cái kia, là được, là mất…khởi ra tâm niệm không lành, tạo mọi điều ác nghiệp; do vậy mà loanh quanh trong sáu nẻo chịu mọi sự khổ đau vô lượng ức kiếp mà không tự biết để tìm lấy lối ra !
Này Đại Trang Nghiêm ! Tu học Vô Lượng Nghĩa, Bồ tát phải quán chiếu tư duy: Pháp tướng “như vậy”, nó sanh “như vậy”.
Pháp tướng “như vậy”, nó trụ “như vậy”. Pháp tướng “như vậy”, nó dị “như vậy”. Pháp tướng “như vậy”, nó diệt “như vậy”. Pháp tướng “như vậy”, nó sanh ác pháp. Pháp tướng “như vậy”, nó sanh thiện pháp.
Pháp trụ, dị, diệt, cũng sanh thiện pháp và ác pháp “như vậy”.
Tóm lại tu học Vô Lượng Nghĩa là tu học cách quán chiếu Thật Tướng các pháp. Tu học nhận thức về cái tự tánh “Như Thị” thanh tịnh bản nhiên của hiện tượng vạn pháp cho đến khi tự mình thể nhập cái chân lý “Thật Tướng Vô Tướng” “Vô Tướng Bất Tướng” (Thật tướng của vạn pháp là không mà ý niệm không cũng không lưu giữ).
Bồ tát tu học Đại thừa Vô Lượng Nghĩa, chuẩn bị cho mình một tư thế sẵn sàng để tiếp thọ tư tưởng “Duy Nhất Phật Thừa Vô Hữu Dư Thừa Nhược Nhị Nhược Tam” của kinh Diệu Pháp Liên Hoa (chỉ có một Phật thừa duy nhất, không có thừa nào khác để gọi là hai hoặc ba).
Với giáo lý vô thượng thậm thâm vi diệu đó, nên kinh Vô Lượng Nghĩa và kinh Diệu Pháp
Liên Hoa là thứ chân lý “Duy Hữu Phật Dữ Phật Nãi Năng Tri Chi” (Chỉ có Phật với
Phật mới hiểu rõ nguồn giáo lý đó).
Xét cho cùng, thì Như Lai thường trụ trong chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, chứ không phải chỉ có cơ hội sau khi nói kinh Vô Lượng Nghĩa Như Lai mới nhập định Vô Lượng Nghĩa Xứ. Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp, Như Lai lúc nào chẳng có !
Tướng Lông trắng giữa đôi mày Phật là một tướng trong 32 tướng của Phật. Còn ánh sáng thông thường người ta gọi là “hào quang” của Phật. Hào quang có phóng hay không phóng là một vấn đề khác cần phải học và hiểu kỹ về Phật thì người đệ tử Phật mới tránh được bệnh chấp ảo tưởng hoang đường.
Nội dung kinh Pháp Hoa, về việc phóng ánh sáng (người đời thường linh thiêng hóa bằng cái từ “hào quang”) trước sau đức Phật sử dụng ba lần khác nhau, để nói lên công dụng khác nhau về giáo lý mà đức Phật muốn truyền đạt cho Pháp Hoa hải hội từng lúc khác nhau.
Ở phẩm Tựa nầy, đức Phật chỉ phóng ánh sáng lông trắng chặng giữa đôi mày (chỗ huyệt ấn đường) soi sáng khắp một vạn tám ngàn thế giới chư Phật ở phương Đông. Đại chúng xem thấy rõ việc làm của Phật trong sự nghiệp giáo hóa, thuyết pháp độ sanh. Thấy rõ các chúng Thanh văn tinh tấn tu hành nói pháp tứ đế. Thấy các Bồ tát đang thực
thi lục độ trên đường tự lợi, lợi tha. Thấy rõ, có đức Phật đang chuyển pháp luân. Có đức Phật đang nhập Niết bàn. Có nơi trà tỳ thâu xá lợi…trên từ Trời Sắc cứu cánh nhìn thấu suốt địa ngục a tỳ, lục đạo chúng sanh thông đồng trông thấy lẫn nhau….
Một điểm “hào quang” tức là một chút “trí tuệ” Phật mà khiến cho mọi người trong đại chúng có khả năng nhìn những sự việc trong một vạn tám ngàn thế giới…Vừa thấy vừa nghe như cận kề trước mắt. Sự kiện nầy nhằm dạy cho toàn thể Pháp Hoa Hải Hội về “Trí Tuệ Phật” về “tri kiến Như Lai”. Rằng khi con người đủ khả năng sử dụng “Trí tuệ
Phật” “Tri kiến Như Lai” thì một vạn tám ngàn thế giới cũng chẳng có gì ngăn sông cách núi.
Phóng hào quang lần hai, đức Phật sử dụng hai điểm. Một ở tướng bạch hào và một ở tướng vô kiến đảnh. Hai điểm hợp lại, khiến cho đại chúng trông thấy thế giới chư Phật nhiều như số cát 42 sông Hằng.
Phóng quang lần ba, ánh sáng phát ra từng lỗ chân lông Phật, toàn thể Pháp Hoa Hải Hội trông thấy Pháp Giới Nhất Chân. Cõi nước trong mười phương không còn ranh giới nữa.
Thế cho nên giáo lý: “chư pháp tương tức”, “nhất đa tương dung”, “đồng thời cụ túc tương ứng” cũng được hiểu ở nơi sự kiện “phóng quang” nầy (xin đọc thêm Kinh Duy Ma Cật Trực Chỉ Đề Cương cùng một biên dịch giả). Để chứng minh sáng tỏ ý nghĩa đó, ta hãy đọc đoạn văn trùng tụng nầy:
….”Ngã kiến Đăng Minh Phật
Bổn quang thụy như thử
Dĩ thị tri kiến Phật
Dục thuyết Pháp Hoa Kinh Kim tướng như bổn thoại Thị chư Phật phương tiện
Kim Phật “phóng quang minh” Trợ phát thật tướng nghĩa….
có nghĩa là: xưa kia tôi thấy Phật Đăng Minh, phóng hào quang giống như hiện giờ. Vì vậy tôi biết hiện nay Phật sắp nói kinh Pháp Hoa. Điềm hôm nay y hệt điềm xưa. Đó là phương tiện của chư Phật. Nay Phật phóng hào quang, nhằm hổ trợ cho sự diễn bày “thật tướng”.
Vậy, nói đến “hào quang” phải hiểu là “Trí tuệ Phật”. Tùy trường hợp sử dụng trí tuệ ít hay nhiều, toàn diện hay chưa toàn diện và tầm nhận thức chân lý, nhận thức thế giới rộng hẹp khác nhau.
Sự thông đồng giữa một vạn tám ngàn thế giới của chư Phật…Và Lục đạo chúng sanh, nền triết lý “một tâm đủ mười pháp giới” của đạo Phật, được Phật khai thị một cách kín đáo qua sự kiện phóng quang nầy.
Bồ tát Di Lặc không biết duyên cớ của sự hiện điềm, thay mặt đại chúng hỏi để tìm hiểu duyên cớ. Bồ tát Đại Trí Văn Thù thì giải đáp một cách tận tường, khúc chiết. Kinh nêu ra sự kiện nầy, nhằm dạy cho người đệ tử Phật ghi nhớ và quan tâm vấn đề “nhân quả” và vấn đề “chủng tử” trong quá trình tu học ở thời đức Nhật Nguyệt Đăng Minh xa xưa. Đại Trí Văn Thù là Bồ tát Diệu Quang thời đó. Ở thời kỳ Bồ tát Diệu Quang dạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho 800 đệ tử vững bước tiến tu trên đường Bồ đề thì Di Lặc lúc bấy giờ mang biệt hiệu là Bồ tát Cầu Danh, thường biếng trễ trên đường tu học.
Gieo hạt giống trí tuệ sâu, sẽ thành cái quả “Đại Trí”. Trồng cái nhân biếng trễ kết quả
chỉ là Từ Thị Di Lặc vậy thôi.
Giáo lý của kinh Pháp Hoa thuộc về pháp lớn, thứ pháp chỉ để dạy cho những người có chủng tánh Đại thừa, khác với giáo lý dạy cho những hàng căn tánh Tiểu thừa. Phật nói kinh Pháp Hoa là tuông mưa pháp lớn; thổi còi pháp lớn, đánh trống pháp lớn. Thứ giáo pháp mà người đời khó nghe, khó hiểu và khó tin.
Ở nơi phẩm Tựa của Bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Phật đã cho Pháp Hoa Hải Hội biết về cái nguyên tắc chung của ba đời chư Phật thường làm. Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh cách hằng hà sa số kiếp trước đã làm như vậy, hiện nay đức Phật Thích Ca cũng đang làm như vậy và Phật tương lai thì cũng thế. Lời nói của chư Phật là lời chân chính, chắc thật. Lời nói trước sau như một, ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành, không hề có dụng ý lừa dối phỉnh gạt người nghe.
Về phương diện thuyết pháp giáo hóa chúng sanh thì vì hạng căn cơ Thanh Văn Phật nói cho họ về pháp “Tứ diệu đế”, hầu mong ra khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn; vì hàng Duyên Giác nói cho họ về pháp “Thập nhị nhân duyên”; vì hàng Bồ tát nói pháp “Lục ba la mật” khuyến cáo thẳng tiến lên Bồ đề Vô thượng thành tựu Nhất Thiết Trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí của mình. Đó là thông lệ của ba đời chư Phật, trong sự nghiệp hóa độ
chúng sanh.
Vấn đề 20.000 đức Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, pháp của đức Phật nói: ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành. Phải hiểu vấn đề nầy, rằng: không những 20.000 mà 200.000 hay 200.000.000… đi nữa, pháp của các Phật nói ra cũng đều lành như vậy cả. Danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh vừa là danh hiệu Phật vừa là biểu trưng “Phật”
là hiện thân của chân lý muôn đời trong sáng cũng như sự soi sáng của vầng nhật nguyệt vằng vặc muôn đời….
Đức Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh thứ 20 ngàn, xuất thân từ gia tộc nhà vua. Tức nhiên là vinh hoa phú quý tột bậc. Có tám con ngoan, tức nhiên có hoàng hậu hiền.
Vì muốn cầu quả Phật, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, con đường duy nhất là phải xuất gia, xuất gia xả đi cái “ta” cái “trẩm” của một đấng quyền uy tối thượng, sanh sát trong tầm tay ấy và để phủi giũ hết những cái sở hữu “của ta”, mênh mông một trời giang san cẩm tú ! Bấy giờ, trước cảnh gió lộng trời thanh, trong những đêm trăng trong gió mát, nhìn giang san với tâm hồn thanh thoảng ngâm nga:
“Nhất phái thanh sơn cảnh sắc u Tiền nhân điền thổ hậu nhân thu Hậu nhân thu đắc mạc hoan hỉ Hoàn hữu thu nhơn tại hậu đầu” (Một dải giang san cảnh đẹp thanh Cơ đồ người trước kẻ sau giành
Người sau cướp được khoan mừng vội
Chẳng mấy lâu sau có gả tranh.)
Thưởng thức được cái thi tứ đậm đà chân lý đó, thì ngày thành Phật, sao mai dần dần ló dạng.
Xuất gia hành đạo, thực ra không phải chuyện ngẫu nhiên, mà mỗi mỗi đều có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân có hai thứ: “viễn nhân” và “cận nhân”. Người chỉ có “viễn nhân” thì xuất gia trước, rồi chế ngự, bồi dưỡng, uốn nắn “thức tâm” sau. Người có “cận nhân” thì trau dồi chế ngự “thức tâm” trước, sau đó đủ điều kiện mới xuất gia hành đạo.
Cha xuất gia tu hành, độ các con, đắc thành chánh quả. Đấy là thể hiện theo nguyên tắc
“viễn nhân”.
Ngược lại, con và vợ xuất gia tu hành độ vua cha thành tựu đạo quả. Sự thanh tịnh hóa “thức tâm” trước, là thể hiện theo nguyên tắc “cận nhân”. Như trường hợp Diệu Trang Nghiêm Vương phẩm thứ 27.
Thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa thời gian 60 tiểu kiếp, đức Nhật Nguyệt Đăng Minh không rời chỗ ngồi mà Bồ tát Diệu Quang, 800 tử đệ cùng đại chúng không hề mỏi mệt và với thời gian ấy mà tưởng chừng như thời gian của một bữa ăn. Điều nầy nói lên sự kết quả to lớn của người nói và người nghe. Thể nhập “Pháp Hoa Tam Muội”, nhận thức được chân lý “Pháp giới nhất chân”, “Chư pháp tương tức, tương dung, tương ứng” thì ngay điểm thời gian hiện tại có đủ mười đời. “Thập thế cách pháp dị thành môn” vì thời gian cũng tương tức, tương dung, tương ứng.
(Xin đọc thêm “Thập huyền duyên khởi” có giảng rõ ở kinh Duy Ma Cật Trực Chỉ Đề
Cương cùng một biên soạn giả)
Sanh tử là việc bình thường, từ ngàn xưa, con người đã chấp nhận sự thật đó. Hễ có sanh tất phải có tử. Chỉ khác nhau ở điểm chúng sanh thì “sanh tử bì lao” đau đớn, khổ sở
triền miên, vì cái nhân đa dục. Còn Phật “sanh thuận tử an” sống chết là thuận theo chân lý biến dịch tuần hoàn của vạn pháp, cho nên cái chết của Phật gọi là “nhập Niết bàn”.
Vấn đề thọ ký cũng được báo trước trong ánh hào quang, để chuẩn bị tư tưởng cho đại chúng trong hội Pháp Hoa khỏi ngạc nhiên và bở ngỡ sau nầy. Vì Phật sẽ thọ ký dài dài cho nhiều đối tượng, nói đúng hơn, cho tất cả mọi căn cơ.
Giáo lý kinh Pháp Hoa là thứ chân lý Đại Thừa liễu nghĩa, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã nói, Bồ tát Diệu Quang thuộc hàng đệ tử tiếp tục truyền bá kinh Pháp Hoa, dẫn dắt tám vị vương tử tu hành đều thành Phật.
Người nghe được kinh Pháp Hoa là người trồng sâu căn lành cho nên sớm muộn gì rồi cũng được thành Phật. Một Bồ tát có biệt hiệu là Cầu danh, nghe qua là có thể biết đạo hạnh của vị Bồ tát thế nào rồi. Dù vậy, cũng đã tiếp thu gieo giống Pháp Hoa cho nên hạt sen Pháp hoa đến thời Phật Thích Ca đã trổ bông bảy tám chục phần trăm mở bày cánh nhụy.
Văn Thù và Di Lặc trong cương vị Bồ tát, có hơn kém nhau trong mức độ phần trăm nào đó, chỉ vì khi gieo giống có trước có sau, có nông sâu, từ khi cùng tu học dưới thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xa xưa ấy.
Thuật lại một sự kiện xưa để đoán định hiện tượng đang xảy ra hiện tại, để kết luận rằng: Phật sắp nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, như Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã nói cách đây vô lượng hằng sa kiếp trước.
Trong sự kiện phóng quang ngầm tuyên cáo với tất cả chúng sanh hậu thế rằng những việc Phật nói, Phật làm trong kinh Pháp Hoa để dạy cho chúng sanh là việc của chư Phật quá khứ đã nói, đã dạy, đã làm. Chẳng những thế, mà chư Phật vị lai cũng nói, cũng dạy và cũng làm như vậy.
Ánh sáng mặt trời nóng, mặt trăng mát, dù ở quá khứ, hiện tại hay vị lai thì ai cũng nói như vậy thôi !







PHẨM 2
PHƯƠNG TIỆN
Bấy giờ đức Thế Tôn xuất định bảo Xá Lợi Phất: Trí tuệ của chư Phật sâu xa vô lượng, hàng Thanh văn, Duyên giác, Bích Chi Phật không thể biết được. Bởi vì trí tuệ đó là kết quả của quá trình gần gũi vô số chư Phật, tu hành vô lượng đạo pháp viên mãn, dũng mãnh tinh tấn. Trí tuệ và sự hiểu biết sâu xa chưa từng có của Phật, giáo hóa theo thời, tùy cơ nói pháp ý thú khó lường.
Xá Lợi Phất ! Sau khi thành Phật Như Lai vận dụng nói nhiều thí dụ, phân tích các thứ nhân duyên, diễn bày nhiều ngôn giáo, linh hoạt trong vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh khiến cho xa lìa lòng chấp. Như Lai là bậc đầy đủ tri kiến và các Ba la mật. Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa. Tứ vô ngại trí, thập trí lực, tứ vô sở úy, thiền định, giải
thoát tam muội sâu thẩm và mênh mông không ngằn mé.
Như Lai tùy thời phân biệt khéo nói pháp, lời lẽ đẹp, đáp ứng sở thích của nhiều hạng căn cơ.
Nhưng thôi đi ! Xá Lợi Phất ! Không cần nói nữa !
Bởi vì pháp ít có và khó hiểu bậc nhất mà Phật có, pháp đó chỉ có Phật với Phật mới hiểu biết thấu tột “Thật tướng”. Rằng:
“Các pháp:Tướng của nó như vậy.
Tánh của nó như vậy. Thể của nó như vậy. Lực của nó như vậy. Tác của nó như vậy. Nhơn của nó như vậy. Duyên của nó như vậy. Quả của nó như vậy. Báo của nó như vậy.
và từ đầu chí cuối của nó như vậy.
Bấy giờ có một số Thanh văn, Duyên giác, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ
những người phát tâm tiểu thừa đều có cùng ý nghĩ rằng: Lạ thật ! Cớ chi hôm nay đức
Phật tán thán pháp của Phật chứng đắc cao sâu, khó nghe, khó hiểu….nào là Như Lai phương tiện nói pháp khéo léo, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể hiểu được….!
Tại sao Như Lai nói thế ! Từ lâu đức Phật dạy chúng ta pháp tu giải thoát, chúng ta đã chứng đắc Niết bàn rồi. Cớ chi hôm nay đức Phật như có ý chê trách những điều tu học và chứng đắc của hàng Thanh văn, Duyên giác bấy lâu nay !
Ông Xá Lợi Phất cảm thông ý của đại chúng cũng như nỗi lòng hoang mang của chính mình, bèn thưa hỏi Phật:
Bạch Thế Tôn ! Nhân duyên gì hôm nay Thế Tôn ngợi khen pháp phương tiện nhiệm
mầu sâu xa khó hiểu của chư Phật ? Hiện giờ bốn chúng có lòng nghi, xin Như Lai dạy rõ về duyên cớ ấy !
Phật bảo: Xá Lợi Phất ! Thôi ! Thôi đi ! Đừng hỏi việc đó. Nói việc đó ra thì tất cả người, trời, A tu la ở trong đời đều sẽ kinh sợ và nghi ngời, không tốt.
Bạch Thế Tôn ! Ông Xá Lợi Phất thưa, xin Thế Tôn nói cho. Trong hải hội nầy có người lãnh hội được lời dạy của Phật và có thể đủ sức kính tin.
Đức Phật lại khuyên ngăn: Rằng nếu nói việc đó thì người, trời, A tu la đều kinh nghi, Tỳ kheo, tăng thượng mạn sẽ sa vào hầm tội lỗi.
Ông Xá Lợi Phất lại ân cần cầu xin Phật rủ lòng thương….
Sau ba lần cầu thỉnh thiết tha của ông Xá Lợi Phất, đức Phật vừa hứ khả, tức thì trong hải hội có các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, cả thảy năm ngàn người đứng dậy bái Phật, xin được rút lui.
Đức Thế Tôn an nhiên, không ngăn cản và bảo ông Xá Lợi Phất: Rằng trong đại chúng giờ đây không còn những trái đèo hạt lép mà chỉ còn toàn trái tốt và hạt chắc.
Xá Lợi Phất ! Những hạng người tăng thượng mạn như vậy, lui đi vẫn tốt. Vậy ông lắng ý mà nghe, Như Lai sẽ nói về sự nhiệm mầu khó nghe, khó hiểu. Và Như Lai cũng nói cho ông biết lý do của sự có mặt của Như Lai trong cõi đời nầy.
Này ! Xá Lợi Phất ! Pháp mầu sâu thẩm của chư Phật, đúng thời mới đem ra nói. Như
hoa Linh thoại đến thời tiết mới trổ một lần.
Xá Lợi Phất ! Chư Phật thuyết pháp phải đúng thời, tùy đối tượng, hợp căn cơ cho mỗi người, mỗi lúc khác nhau. Vì vậy, pháp của chư Phật nói khó nghe, khó hiểu, vì ý thú rất nhiệm mầu, Chư Như Lai vận dụng vô số phương tiện, giảng nhiều cách, dẫn nhiều tỉ dụ, thay đổi ngôn từ, lời lẽ khéo léo, đáp ứng cho mọi hạng người. Vì vậy mà pháp Phật nói
không thể suy lường phân biệt hời hợt thông thường mà có thể hiểu được. Chỉ có Phật và
Phật mới thấu hiểu hết ý của nhau.
Xá Lợi Phất ơi ! Ông làm sao hiểu được cái lý do cực kỳ quan trọng mà các đức Phật xuất hiện ở đời !
Nầy, Xá Lợi Phất ! Chư Như Lai xuất hiện ở đời nhằm:
1. Mở bài và giới thiệu “Tri kiến Phật” của chúng sanh
2. Vận dụng ngôn từ, tỷ dụ khéo léo để “chỉ” Tri kiến Phậtcủa chúng sanh cho chúng sanh biết.
3. Hướng dẫn cho chúng sanh “hiểu kỹ” về Tri kiến Phật của mình.
4. Khuyến cáo, khích lệ cho chúng sanh sống bằng Tri kiến Phật mà mình vốn có.
Đó là lý do cực kỳ quan trọng mà chư Phật Như Lai xuất hiện ở cõi đời. Mục đích của chư Phật ra đời chỉ vì một việc: Đem Tri kiến Phật chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ đấy mà thôi !
Chư Phật Như Lai nói pháp cho chúng sanh chỉ vì dạy cho họ một “Phật thừa” chớ không có hai thừa, ba thừa nào khác. Pháp của chư Phật trong mười phương cũng đều như vậy. Chư Phật trong quá khứ, chư Phật hiện tại cũng như chư Phật vị lai vận dụng vô số phương tiện, triển khai nhiều cách, ngôn từ khéo léo, tỷ dụ dồi dào, nhưng tất cả nhằm dạy cho chúng sanh “một Phật thừa” khiến cho những chúng sanh tu hành đều đạt thành “Nhất thiết chủng trí”.
Xá Lợi Phất ! Chư Phật giáo hóa Bồ tát vì muốn đem Tri kiến Phật “chỉ” cho chúng sanh, muốn cho chúng sanh tỏ ngộ, hiểu kỹ về Tri kiến Phật và thể nhập, sống trong Tri kiến Phật của chính mình. Tất cả cõi nước trong mười phương không có hai thừa làm gì lại có đến ba ! Tại vì chúng sanh sống trong đời đầy năm trược ác mà chư Phật dùng sức phương tiện ở một Phật thừa tạm nói có ba.
Xá Lợi Phất ! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời dạy của Phật. Lời của chư Phật không hề có hư vọng. Rằng không có thừa nào khác, mà chỉ có một “Phật thừa” thôi !
Bấy giời đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
…Xá Lợi Phất ! Nên biết Ta vốn lập thệ nguyện Muốn tất cả chúng sanh Bằng như ta không khác Như ta xưa đã nguyện Nay đã viên mãn rồi
Độ tất cả chúng sanh
Đều khiến vào Phật đạo
… Xá Lợi Phất ! Nên nhớ Ta vì bày phương tiện Nói các đạo diệt khổ Chỉ cho họ Niết bàn
Ta dù nói Niết bàn Mà không thật diệt độ Các pháp từ xưa nay
Tướng nó thường vắng lặng
Phật tử hành đạo rồi
Sau đó được thành Phật
…Nếu có hạng chúng sanh Nghe pháp Phật tu hành Những người như thế đó Đều đã thành Phật đạo
…Các Phật diệt độ rồi Người cúng dường xá lợi Nhóm đất làm tháp Phật Những hạng người như thế Đều đã thành Phật đạo
….Các đồng tử vui chơi Nhóm cát thành miếu Phật Những trẻ con như thế
Đều đã thành Phật đạo
Nếu có người mến Phật Chạm trỗ các hình tướng Nắn vẽ hình tượng Phật Những người như thế đó Đều đã thành Phật đạo
…Có người trước tháp miếu Dùng hoa, hương, phan lọng Thành kính mà cúng dường Ca ngâm khen ngợi Phật Nhẫn đến tiếng thì thầm
Đều đã thành Phật đạo
…Hoặc người tâm tán loạn Vào trong tháp miếu Phật Một xưng nam mô Phật Đều đã thành Phật đạo
…Với chư Phật quá khứ Tại thế hoặc diệt độ Nghe tin chư Phật ấy Đều đã thành Phật đạo
…Nếu có người nghe pháp Không ai chẳng thành Phật Các Phật vốn thệ nguyện
Tu hành thành Phật đạo
…Phật là thầy trong đời Thường phương tiện tùy nghi Diệt bỏ tâm nghi hối
Tự biết sẽ thành Phật.
THÂM NGHĨA
Vận dụng “phương tiện” nhằm đạt đến chỗ “cứu cánh”…Cũng như khi người ta sử dụng “sách lược” nhằm đạt đến “mục đích lý tưởng”…Vận dụng “phương tiện” để đạt đến cứu cánh là chủ trương phương cách giáo hóa, uốn nắn thực hiện theo con đường “vương đạo”; sử dụng “sách lược” để đạt đến mục đích là do tính thủ đoạn cai trị, theo con đường “bá đạo” nói theo ngôn từ của các nhà chánh khách, thời xưa.
“Phương tiện” trong việc giáo hóa, có nghĩa là “Nói vậy mà chưa phải vậy”. Bảo rằng: “Học vậy đi ! Hiểu vậy đi ! Làm vậy đi ! Lợi ích lắm đó ! Tốt lắm đó ! “Nhưng cái lợi ích và sự tốt đó, chưa phải là cái “lợi ích” cứu cánh và muốn đạt đến cái “tốt” cứu cánh, cần phải học, phải hiểu, phải làm nhiều hơn nữa. Bấy giờ sự học, hiểu và việc làm đó mới
đến nơi đến chốn, mới đến chỗ cứu cánh trọn vẹn…
Vì sao hơn 4o năm thuyết pháp, Phật chỉ dùng “phương tiện” giáo hóa chúng sanh ? Tại vì, Phật xuất hiện ra đời với mục đích cao đẹp “tuyệt trần” mà trong khoảng thời
gian đó, Phật chưa thể nói rõ ra được.
Tại vì chúng sanh đang sống trong cuộc đời đầy năm trược ác, cấu chướng nặng nề, ba nghiệp không lành, sáu căn chưa trong sạch, nếu dạy cánh tu hành “thành Phật” chúng sanh ngần ngại khó khăn.
Tại vì, nói chúng sanh có khả năng thành Phật, chúng sanh không dám tin nhận ở khả
năng mình.
Thế cho nên Như Lai phải vận dụng “phương tiện” mà dẫn dụ, uốn nắn, bồi dưỡng trí tuệ cho chúng sanh một cách dần dần, ngay từ thời thuyết pháp đầu tiên ở Lộc giả uyển, thành Ba la nại….
• Lẽ ra như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Sự xuất thế của Như Lai và trí tuệ của Như Lai có, không phải là sự ngẫu nhiên do sự đưa đẩy trôi xuôi theo dòng nghiệp lực…
• Lẽ ra như Lai phải nói thẳng với chúng sanh về hoài bảo duy nhất và mục đích tối thượng của Như Lai ngay lúc bắt đầu cuộc hành trình thuyết giáo độ sanh, nhưng Như Lai chưa nói rõ ra được điều đó.
• Lẽ ra như Lai phải nói thẳng với hàng Thanh Văn, Duyên Giác, rằng pháp mà như Lai dạy cho họ chỉ là pháp “Tiểu thừa” và Niết bàn họ chứng đắc chưa phải là thật diệt độ, nhưng hơn 40 năm qua, Như Lai chưa nói điều đó.
• Lẽ ra “mười hai bộ kinh”, Như Lai phải bình đẳng dạy cho tất cả chúng sanh, nhưng vì căn tánh không đồng, đối với hạng chúng sanh Nhị thừa Như Lai dạy cho họ chỉ có chín kinh.
• Lẽ ra từ lâu, Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Tất cả chúng sanh đều sẵn có Tri kiến Phật, nhưng Như Lai đã bí mật dấu hẵn điều nầy vì căn cơ của chúng sanh còn thấp kém chưa đủ trí tuệ để tiếp thu.
• Lẽ ra, trước đây Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: tu hành là “thành Phật”, không có quả Nhị thừa, Tam thừa nào khác, nhưng từ lâu nay, Như Lai nói có. Vì đó là phương tiện của Như Lai.
• Lẽ ra Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Tất cả chúng sanh là Phật, nhưng cho đến bây giờ, trước giờ phút nhập Niết bàn, Như Lai mới mở kho tàng bí mật, để giao trọn gia tài pháp bảo vô giá của Như Lai cho tất cả chúng sanh.
Trong quá trình thuyết giáo độ sanh, với một lập trường kiên định và linh hoạt tuyệt vời, Như Lai vận dụng “Tứ tất đàn” một cách vô cùng phong phú. Nhờ vậy, mọi căn cơ đều được thấm nhuần mưa pháp. Người học Phật không được lảng quên tiêu chuẩn:
1. Thế giới tất đàn
2. Vị nhân tất đàn
3. Đối trị tất đàn, và
4. Đệ nhất nghĩa tất đàn.
Để hiểu một cách quyết định và tin sâu về “Tri kiến Phật”, về “Phật tánh” của mình, người học kinh Pháp Hoa còn phải am tường về nguồn giáo lý “Lục tức Phật”:
1. Lý tức Phật
2. Danh tự tức Phật
3. Quán hành tức Phật
4. Tương tợ tức Phật
5. Phần chứng tức Phật
6. Cứu cánh tức Phật
Dựa trên nền giáo lý “Lục tức” mỗi người có thể tự nhận xét và đánh giá địa vị “đã thành Phật” của mình.






PHẨM 3
THÍ DỤ
Lúc bấy giờ Ông Xá lợi Phất hớn hở vui mừng, đứng dậy cung kính chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan Phật và bạch rằng: “Hôm nay con được nghe những điều Phật dạy, lòng con hân hoan chưa từng có. Bao nhiêu nghi ngờ của con đã hết. Trước kia con thường nghĩ ngợi và tự hỏi: Phật cũng ở trong Pháp tánh như mình, cớ sao Phật được là Phật, còn mình thì lại không ? Cớ sao Như Lai lại đem pháp “Tiểu thừa” mà dạy cho ?
Cớ sao các Bồ tát được thọ ký thành Phật, còn mình chẳng được dự vào việc đó ? Con tựcảm thương mình ! Chẳng lẽ mình mất hết vô lượng Tri kiến Phật, mất hết khả năng thành Phật hay sao” ? Nay nghe Phật dạy, con mới hiểu rằng, lỗi tại chúng con, vì mê mờ thiển cận, vừa được nghe pháp phương tiện là đã vội ham, tư duy tu tập để cầu chứng đắc. Nay con đã hiểu rõ, rằng giáo lý Tiểu thừa là “pháp phương tiện” tùy nghi dẫn dụ của Như
Lai. Dù “chứng đắc Niết bàn” nhưng chứ hoàn toàn diệt độ. Giờ con rất sung sướng tự biết mình là con thật của Phật. Từ kim khẩu Phật sanh ra, từ pháp hóa của Phật sanh ra, con được dự phần tron “Phật tánh và Pháp tánh” vô thượng.
Ông Xá lợi Phất thưa tiếp: “Lúc mới nghe Phật “thọ ký” con sẽ thành Phật, con nghi ngờ tự hỏi có phải ma giả Phật để não loạn lòng con. Nhưng sau nhờ những tỷ dụ của Phật, con mới hết nghi và tin quả quyết rằng con sẽ thành Phật”.
Đức Phật lại bảo: Xá lợi Phất ! Ta xưa đã từng giáo hóa ông, từng dẫn dắt ông trong thời gian dài ở hai muôn ức Phật. Ta hướng dẫn ông đi trên con đường thành Phật, nhưng ông lại quên mà tưởng là diệt độ trong khi chưa đến đích. Nay ta muốn cho ông nhớ lại chí nguyện thành Phật xưa kia mà vì hàng Thanh Văn nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm nầy. Như Lai cũng nói trước cho ông biết, trong vị lai vô số kiếp, ông cúng dường vô số Phật, phụng trì chánh pháp làm đủ đạo Bồ tát rồi ông sẽ thành Phật hiệu Hoa Quang Như Lai đủ mười đức hiệu, nước tên Ly Cấu, kiếp tên Đại Bảo Trang Nghiêm. Số Bồ tát được ông giáo hóa nhiều vô lượng.
Xá lợi Phất ! Đức Hoa Quang Như Lai sau đó “thọ ký” cho Bồ tát Kiên Mãn sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai đủ mười đức hiệu và cõi nước cũng trang nghiêm như vâỵ.
Đại chúng thấy Phật “thọ ký” ông Xá lợi Phất được thành Phật, vui mừng hớn hở, mỗi người cởi thượng y của mình dâng lên cúng Phật.
Xá lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn ! “Trước kia Phật thường dạy: “Giáo pháp của Như Lai có công năng xa lìa sanh, già, bệnh, chết và được cứu cánh Niết bàn”. Các hàng Thanh Văn đã nghe và hành theo, ai cũng tưởng là mình được Niết bàn rồi. Nay Phật lại đưa ra giáo pháp chưa ai từng nghe: Rằng “Niết bàn ấy chưa phải rốt ráo tịch diệt, mà rốt ráo phải thành Phật”. Con e sợ hàng Thanh Văn còn chỗ nghi ngờ. Cúi xin Thế Tôn, vì bốn chúng giải thích rõ ý thú của lời Phật”.
Phật bảo: Trước kia Như Lai há chẳng nói rằng, tất cả giáo pháp của Phật dạy đều là phương tiện đưa đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đó sao ? Nhưng thôi, để cho người trí hiểu được Như Lai có cái thí dụ nầy:
Trong một xứ nọ, có ông Trưởng giả giàu to của cải vô lượng, nhưng tuổi đã già suy. Nhà của ông rộng lớn chứa rất nhiều người, trong số có các con của ông, nhưng phải cái nguy là ngôi nhà mục nát, cột kèo ngả đổ, vách phên xiêu sập, rắn rít rất nhiều, thêm nỗi lửa cháy bốn bề mà lối ra thì chỉ có một cửa.
Ông Trưởng giả đứng ngoài lo sợ cho các con, nghĩ bụng rằng: Ta có thể xông vào cứu chúng, nhưng nhớ đến cửa nhỏ hẹp, sợ các con dùng dằng không đem ra được hết. Trong lúc nguy hại trước mắt các con của ông cứ đùa giỡn vui chơi, không biết sợ sệt gì hết và cũng không có ý muốn ra, vì không biết nhà cháy là gì, lửa là gì !
Ông Trưởng giả bèn lập kế, ông hô to: “Các con! Cha có những đồ chơi đẹp lắm đây. Xe dê, xe hưu, xe trâu trắng, xe nào cũng đẹp đẽ trang sức lộng lẫy, các con mau ra tự chọn lấy xe theo ý thích”.
Các con ganh đua xô đẩy lẫn nhau kéo nhau chạy ra khỏi nhà cháy. ông Trưởng giả rất mừng khi thấy các con được an ổn. Ở nơi ngã tư đường không còn nguy hại.
Bấy giờ các con xúm lại đòi đồ chơi, với ước muốn riêng, xe dê, xe hưu theo ý thích, nhưng ông Trưởng giả chỉ ban cho các con đồng một thứ xe lớn tốt đẹp vô cùng, đầy đủ tiện nghi trang hoàng lộng lẫy. Vì sao, ông Trưởng giả không cho ba thứ xe lớn nhỏ, tốt đẹp khác nhau mà lại cho đồng một thứ xe tuyệt đẹp. Vì ông Trưởng giả quá giàu, kho tàng đầy ngập, của cải vô lượng !
Đến đây, đức Phật hỏi ông Xá lợi Phất: “Ông Trưởng giả trước hứa cho ba thứ xe, nay lại cho có một thứ, mà là thứ lớn, đẹp nhất. Vậy ông Trưởng giả có lỗi nói dối không” ?
Ông Xá lợi Phất đáp: “Dạ không. Giả như cho chiếc xe nhỏ và xấu nhất, ông Trưởng giả cũng không có lỗi nói dối, huống gì cho chiếc xe lớn và đẹp nhất. Vì sao ? Vì việc hứa cho xe chỉ là một sách lược, một phương tiện, nhằm cứu các con ra khỏi nhà lửa đang ngùn ngụt cháy”.
Phật khen: Đúng vậy, Xá lợi Phất ! Như Lai là cha cả tất cả thế gian. Tuy đã ra khỏi thế gian nhưng vẫn vì sự lợi ích của thế gian mà trở vào nhà lửa tam giới cũ mục nguy hiểm nầy để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não, tham lam, hung bạo, si mê, tắm mình trong biển độc hại khổ đau. Sống trong cảnh khổ nhà cháy như thế mà chúng sanh vẫn cứ vui chơi hỉ hả, chẳng hay mình bị lửa đốt, không sợ, không nhàm, không có ý cầu ra khỏi.
Trong việc cứu độ chúng sanh, Như Lai đã từng suy nghĩ: Đem trí tuệ thần thông, giảng nói các tri kiến, trí lực, vô sở úy….của Như Lai không thể được. Vì chúng sanh đang dong duỗi, nô đùa trong rừng vô minh tam độc, bị thiêu đốt trong nhà lửa sanh, già, bệnh, chết, khổ não, ưu bi thì làm gì nghe hiểu mà tiếp thu. Do vậy, Như Lai phải dùng phương tiện, quyền lập pháp tu: Một là Thanh Văn thừa (xe dê). Hai là Duyên Giác thừa (xe hưu). Ba
là Bồ tát thừa (xe trâu trắng). Đó là Như Lai vận dụng phương tiện đáp ứng căn cơ của mỗi hạng chúng sanh.
Ông Trưởng giả cho đều các con mỗi đứa một cỗ xe to đẹp, khi chúng ra khỏi nhà lửa. Như Lai cũng vậy, khi chúng sanh ra khỏi sự khổ não, ưu bi, sanh, già bệnh, chết, bất luận là Thanh Văn, Duyên Giác hay Bồ tát, Như Lai bèn cho cái vui tuyệt đỉnh là: Thiền định, trí tuệ và Tri kiến Phật…..là những cỗ xe đưa đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng như ông Trưởng giả kia, đức Phật không phạm tội nói dối.
Xá lợi Phất ! Vì nhân duyên đó, các Như Lai dùng sức phương tiện: chỉ có một Phật thừa, phân biệt nói thành ba.
THÂM NGHĨA
Cho đến lúc sắp nhập Niết bàn, Như Lai mới nói thật hoài bão của mình. Thì ra trong quá trình thuyết giáo độ sanh đăng đẳng hơn 40 năm, Như Lai sử dụng vô số “phương tiện”.
Hiểu được chủ ý của Phật, ông Xá lợi Phất trút bỏ gánh nghi ngờ, ân hận, trách phận, thương thân, ông tự xác định lỗi do mình “hấp tấp” vừa nghe pháp “phương tiện” vội ham…….mong cầu chứng đắc Niết bàn. Giờ nghe Phật dạy, con biết rõ quả chứng của
Tiểu thừa dù được Niết bàn, nhưng chưa phải là thật diệt độ. Thật diệt độ, phải là người đi cỗ xe Vô thượng Chánh Biến Tri Giác. Và đến đây ông tự xác định ông có điều kiện, đủ khả năng đi trên cỗ xe lớn đó. Ông tự nhận một cách quả quyết rằng mình là Phật tử (Tùng Phật khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh, đắc Phật pháp phần cố danh Phật tử).
Với nguồn giáo lý tiểu thừa, đức Phật dạy cho họ có chín bộ kinh. “Phương quảng”, “thọ ký” và “vô vấn tự thuyết” đối với người Tiểu thừa Phật chưa đề cập đến. Vì vậy với hàng Thanh văn được “thọ ký” thành Phật là một sự bất ngờ sửng sốt, quá sức tin hiểu của mình. Nhưng giờ thì ông Xá lợi Phất đã hiểu chân lý đó.
Trong nguồn giáo lý Phật dạy cho Tiểu thừa vẫn có mầm mống Đại thừa. Vả lại, trong những thời của hai muôn đức Phật xa xưa, Xá lợi Phất và Phật đã từng gieo trồng hạt giống Đại thừa: “Thế thế thường hành Bồ tát đạo”. Nếu không vậy, làm sao có sự hội ngộ ngày nay.
Đức Phật nói: “Nay tôi muốn ông nhớ lại chí nguyện thành Phật xưa kia và vì hàng
Thanh văn mà nói kinh:
“Đại thừa Diệu pháp Liên hoa Giáo Bồ tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm” nầy.
Ông Xá lợi Phất là người được Phật “thọ ký” trước hết trong số những đối tượng được
“thọ ký” ở kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Nguồn tư tưởng của kinh Pháp Hoa và vấn đề thọ ký thành Phật được xem là chân lý phổ biến. Vì là chân lý cho nên đó là việc của ba đời chư Phật đã làm, đang làm và sẽ làm. Được Phật “Thọ ký thành Phật” là một việc. Điều kiện thành Phật lại là việc phải đặc
biệt quan tâm.
Tâm trạng nghi ngờ của hàng Thanh văn không có gì đáng trách. Pháp Tứ đế, Phật dạy, họ đã tu hành, Niết bàn tịch diệt giáo lý Phật nói ra, họ đã chứng. Nay thì Phật nói Niết bàn của Thanh văn, La Hán quả chưa phải là đích đến cuối cùng.
Ở phẩm nầy, kinh dùng một thí dụ để giải thích tại sao chỉ có một “Phật thừa” mà trước kia Phật lại dạy có ba (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát).
Trong thí dụ hỏa trạch (nhà bị cháy). Ông Trưởng giả chỉ Phật. Những đứa con chỉ chúng sanh. Lửa cháy, mục nát, rắn rít….chỉ cảnh thống khổ: sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não của chúng sanh trong “tam giới”. Ba xe, dụ ba thừa, hay ba bậc tu hành là Thanh văn, tiểu quả, ví xe dê. Duyên giác trung thừa, ví xe hưu. Bồ tát hay Phật thừa, ví xe trâu trắng lớn.
Xe nhỏ, ví hạng người chỉ có khả năng tự độ, không giúp ích được cho người khác. Xe lớn, ám chỉ tánh tích cực của hạng người ngoài phần tự độ còn xem trọng việc độ tha.
Sở dĩ từ lâu Phật nói tam thừa vì chúng sanh ham mê cuộc sống “dục vọng” cuộc sống “vật chật” và những niệm tưởng “trừu tượng hoang đường” của ba cảnh giới (Dục, Sắc và Vô sắc giới). Phật không thể đem chân lý Liễu nghĩa Đại thừa ra mà dạy. Giả sử có đem ra dạy chúng sanh cũng không hiểu, cũng chẳng tiếp thu. Do vậy, Phật phải dùng “phương tiện” dạy pháp tu tập lần lần (tiệm tu, tiệm ngộ, tiệm chứng) tùy khả năng của từng hạng người để ai cũng được có phần an ổn thanh thoát. Khi căn cơ, trình độ nhận thức của chúng sanh có khả năng tiếp thu, bấy giờ mới đem thứ giáo pháp “đệ nhất nghĩa” ra mà dạy.
Những người con của ông Trưởng giả ra khỏi nhà cháy, ám chỉ chúng sanh nhờ sự dẫn dụ của giáo lý tam thừa mà ra khỏi ba giới: Dục, Sắc và Vô sắc được an ổn, thanh thoát gọi là Niết bàn.
Ông Trưởng giả cho các con một thứ xe lớn nhất và đẹp nhất khi các con ra khỏi ngôi nhà lửa. Cũng như đức Phật cho hàng Thanh văn, Duyên giác giáo pháp Đại thừa liễu nghĩa là thứ giáo pháp hoàn bị tột mức trên con đường chuyển hóa tâm linh, từ phàm đến thánh, từ chúng sanh đến địa vị Phật.
Ngôi nhà rộng lớn mà chỉ có một cửa ra, ám tỷ ba cõi (cảnh giới) thênh thang không ranh giới, nhưng muốn ra khỏi chỉ có một con đường, con đường “bát chánh” và một cửa, cửa “tam giải thoát môn”.
Cửa tuy mở nhưng khó ra, tại vì không có người muốn ra: chỉ vì chúng sanh mãi mê dục lạc trong ba cõi, mà không nhận biết sự nguy hiểm của sanh, lão, bệnh, tử, khổ não, ưu bi…..
Ông Trưởng giả chỉ “ứng thân Phật” xuất thế cứu độ chúng sanh, vì lợi lạc mọi căn cơ mà vận dụng phương tiện thuyết giáo có tam thừa, nhưng mục đích tối hậu nhằm hướng dẫn mọi chúng sanh thể nhập “Phật thừa tự tánh” vốn có.
Cũng như ông Trưởng giả hứa cho các con ba xe, rốt cuộc lại cho có một. Đức Phật hơn
40 năm thuyết Tam thừa, giờ đây, Phật nói chỉ có một Phật thừa chứ không có thừa nào khác.
Đứng trên lập trường “đệ nhất nghĩa” thì chỉ có một Phật thừa, chứ không có “ba thừa”. Khi đề cập “tam thừa”, “ngũ thừa”, phải hiểu đó là phương tiện của Như Lai.








PHẨM 4
TÍN GIẢI
Ông Tu-bồ-đề, Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp, Mục Kiền Liên thấy Phật thọ ký cho Xá lợi Phất sẽ được thành Phật vui mừng hớn hở và phát khởi lòng tin kiên cố, rằng rồi đây mình sẽ được thành Phật. Ở trước Phật, các ông cùng nói lên lời tự trách rằng chúng con từ lâu đã tự cho rằng mình đã được Niết bàn và tự thấy đã thỏa mãn với pháp thiền: Không, Vô Tướng, Vô Tác của Tiểu thừa, không có ý chí tiến lên cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Để chứng minh sự “tin hiểu” của mình, các đại đệ tử này xin nói một thí dụ:
Có một người, lúc nhỏ bé đã bỏ nhà bỏ cha đi hoang, sau mấy mươi năm rày đây mai đó phiêu bạt, lại thêm nghèo khổ rách rưới lang thang, phải đi xin mà độ nhật. Tình cờ chàng ta trở về đến xứ sở mà không hay biết.
Thời gian ấy cha của chàng tìm con khắp nơi mà không gặp. Ông là Trưởng giả một nhà giàu lớn, châu báu đầy kho, tài sản vô lượng, tôi trai tớ gái đầy nhà. Ông chẳng những là một nhà giàu trong nước mà còn là người giao dịch thương mại lớn, của cải vô số ở khắp nhiều nước khác.
Không nói với ai về việc cha con ly biệt, ông thường suy nghĩ: Ta nay giàu có thế này mà con không có, một mai chết đi thì sự nghiệp nầy giao phó cho ai, chắc phải mất hết. Ước gì ta gặp được con giao phó gia tài cho nó thì lúc chết được an lòng.
Một hôm đứa con lạc loài tình cờ đến trước nhà cha mà không biết. Đứng ngoài cổng ngó vào, thấy Trưởng giả sang trọng uy nghiêm, đang ngồi trên ghế cao, xung quanh có đông người hầu hạ, trong nhà thì ngọc ngà châu báu không biết bao nhiêu. Chàng ta đâm hốt hoảng thầm nghĩ là mình lạc đến chỗ vua chúa. Nghĩ vậy, chàng sợ bị bắt, lén bỏ đi tìm một xóm nghèo hợp với tình cảnh chàng để kiếm việc làm lấy tiền độ nhật.
Nhưng Trưởng giả đã thấy và nhận biết chàng cùng tử ấy là con mình. Ông liền sai hai gia nhân theo bắt chàng lại.
Bị bắt chàng ta sợ quá, van xin mà không được tha, chàng ngã xuống đất chết ngất.
Ông Trưởng giả thấy vậy ra lệnh: Thôi ta không cần con người ấy nữa đâu, hãy lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh rồi cho đi, đừng nói gì với nó nữa.
Biết con mình quen sống với cảnh nghèo hèn, ty tiện nay nếu đột nhiên nhận nó là con mình và mình lại giàu sang tột bậc, chắc chắn nó không tin mà còn đem lòng sợ sệt. Chi bằng thả nó đi rồi lập kế mà dẫn dụ nó.
Ông Trưởng giả mật sai hai người giả dạng bần khổ, tìm đến anh chàng cùng tử, rủ đi làm thuê với công việc hốt phân. Khi nghe biết được trả công gấp đôi, chàng cùng tử nhận lời và cả vào làm việc hốt phân, ở nhà sau vườn ông Trưởng giả.
Thấy con tiều tụy phân đất bẩn thỉu khắp mình, Trưởng giả thương xót quá, ông thay bỏ áo quần tốt đẹp sang trọng, mặc đồ thô rách lấm nhơ để lân la với ba người hốt phân. Một hôm ông Trưởng giả bảo chàng cùng tử: Anh này, nên tiếp tục làm việc ở đây đừng đi
đâu nữa. Ta sẽ thêm tiền công cho. Nhà ta giàu có của cải vô số muốn cần dùng gì tùy ý ta sẽ thuận cho hết. Từ nay về sau cứ xem như con đẻ của ta và hãy gọi ta là cha nhé ! Nói xong ông Trưởng giả gọi chàng cùng tử bằng con. Chàng ta rất mừng, nhưng chàng vẫn tự đặt mình là kẻ hạ tiện làm thuê.
Ít lâu sau, ông Trưởng giả có bệnh cho kêu anh chàng đến, giao cho anh việc quản lý gia tài và cho anh được quyền xuất nhập bất cấm trong nhà. Anh làm tròn bổn phận, nhưng không bao giờ dám tiêu xài quá số tiền sinh nhật của anh. Ở thì cũng ở nhà sau, chỗ cũ không dám tự tại lui tới nhà trên.
Thời gian lâu sau, Trưởng giả biết mình sắp lìa trần, và đứa con nay đã thông minh có chí lớn. ông bèn hội hết thân tộc, trước mặt vua quan ông chỉ chàng cùng tử mà tuyên bố:
Anh này là con ruột của tôi. Bấy lâu xa cách, vì nó bỏ nhà ra đi từ lúc bé. Nay cha con chúng tôi được trùng phùng, tôi giao cho nó tất cả gia tài của tôi mà trước đây nó đã quản lý và biết rõ.
Người con nghe nói mừng quá, cho là việc chưa từng có và tự nghĩ: “Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng châu báu này tự nhiên mà đến”.
Nói câu chuyện “thí du” xong, ông Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên…bạch Phật:
Ông Trưởng giả ví như đức Như Lai, còn chúng con thì như chàng cùng tử thất lạc bỏ cha bỏ nhà…Như Lai là cha, chúng con là con Phật mà không biết.
Chúng con vì ba món khổ mà trong cảnh sanh, già, bệnh, chết, khổ não, sầu lo, chịu các sự mê lầm, ngu dốt cho nên ưa thích giáo pháp Tiểu thừa làm cái việc hốt phân tầm thường mà tự cho là thỏa mãn với cái giá trả công: Niết bàn.
Như Lai không “bắt”, không cưỡng bức chúng con đi theo con đường: Tất cả đều có phần hưởng thọ kho tàng tri kiến Như Lai mà tha cho chúng con theo ý chí thấp hèn, rồi phương tiện thuận theo chúng con mà lần lần dạy bảo.
Chúng con là con của Phật mà không biết. Vì không biết nên không dám mong hưởng thọ cái sự nghiệp, cái gia tài vĩ đại của cha là Phật mà chỉ cam phận với số tiền làm thuê Nhị thừa. Ấy tại vì chúng con không dám nhận mình là con Phật nên Phật cũng không thể tự nhận là cha (không thể dạy pháp Đại thừa).
Nay thì kho tàng pháp bảo vô giá của pháp vương lại tự nhiên mà đến, không mong cầu mà được !
THÂM NGHĨA
Tín là đức tin, phát khởi lòng tin.
Giải là hiểu rõ, là tiếp thu được lời Phật ý kinh. Nội dung phẩm Tín – Giải có hai ý chánh:
- Trước Phật, ông Tu bồ Đề, ông Đại ca Diếp….xin được nói lên nỗi vui mừng và lòng hối hận của mình trong những thời gian trước, đối với giáo lý Đại thừa.
- Xin được nói một thí dụ trình lên Phật về sứ tiếp thu và “tin hiểu” vững chắc của mình. Nhận thức được thế nào là phương tiện, thế nào là cứu cánh qua lời dạy của Phật, ông
Tu bồ Đề và Đại ca Diếp rất vui mừng. Trước Phật các ngài nói lên sự ăn năn tự trách,
rằng từ lâu nay chỉ biết ham học pháp Tiểu thừa, trước hiện tượng vạn pháp thường quán niệm Không, Vô Tướng, Vô Tác. Với giáo lý xây dựng cõi Phật thanh tịnh, hóa độ chúng sanh, hòa quang đồng sự của Bồ tát hạnh, không có lòng ưa thích. Nay nghe được hàng Thanh văn sẽ được thành Phật, lòng vui mừng vô hạn. Chẳng khác nào vô lượng trân
bảo không cầu mà được.
Đến đây, sự chuyển biến nội tâm và ý chí hướng thiện của Nhị thừa, không còn là ý niệm cá biệt. Ông Tu bồ Đề thay lời đại chúng xin được nói lên cái thí dụ Cùng Tử để trình lên Phật về sự Tín Giải của Nhị thừa, nói lên quá trình tiếp thu tin hiểu của hàng Thanh văn đã thâm hậu kiên cố.
Cùng Tử là đứa con bần cùng cơ cực. Bần cùng cơ cực vì bỏ cha, bỏ nhà đi hoang, cho nên cùng tử cũng có nghĩa là “đứa con hoang”.
Bỏ cha, bỏ nhà đi hoang có nghĩa là trước đây cha con cùng ở chung một chỗ một nhà. Chỗ đó là Viên Giác Diệu Tâm Thanh Tịnh Như Lai. Tất cả chúng sanh và Phật đều cùng một nguyên quán. Nói khác đi, nghĩa là cùng một bản thể chân tâm thanh tịnh sáng suốt tròn đầy mầu nhiệm. Nhưng từ khi bất giác, sống trái với chân tánh, bấy giờ tam
tế(1), lục thô(2) diễn biến theo một tiến trình liên tục nghiệp thức. Khi cảm thọ sắc thân “nghiệp hệ” thì lục trần trở thành đối tượng có sức hấp dẫn cuốn lôi. Từ đó, bỏ nhà Viên Giác, xa đấng cha lành thành đứa con hoang, làm chàng “cùng tử” ! một chút trí tuệ không có, đành chịu xoay vần lưu lạc.
Cha lúc nào cũng nhớ con, tìm con với ước mong tha thiết là giao hết cho con cái gia tài vô giá của mình, trước ngày nhắm mắt. Phật ra đời vì chúng sanh, tất cả cho chúng sanh, không lúc nào xao lãng nguyện vọng truyền trao trọn vẹn cho chúng sanh cái Tri Kiến Phật mà chúng sanh vốn có, trước khi nhập Niết bàn.
Cha bỏ xứ tìm con, chỉ cái việc Phật xuất thế, hạ trần vì chúng sanh mà vào đời ngũ
trược.
Khi cha con gặp nhau thì quá cách biệt. Cha thì giàu có tột bậc, con thì nghèo khổ rách rưới lang thang. Cha thì biết rõ con mà con thì tự thấy mình quá hèn, quá thấp, không dám ngó thì còn nói chi tới việc nhìn cha. Phật xuất thế tìm đến chúng sanh nhưng Phật thì Chánh Biến Tri Giác Vô Thượng, còn chúng sanh thì vô minh dày đặc, nghiệp chướng nặng nề, một chút chánh kiến không có, thì ai mà dám bảo mình là con Phật (Phật tử). Ai dám nghĩ rằng mình có quyền thừa hưởng kho tàng pháp bảo của Như Lai ?
Đó là lý do, phát xuất từ ý nghĩ không chánh lý nhưng vì đó mà chúng sanh thường nảy sanh ý nghĩ tự khinh.
Cha biết con mình quen đời sống ăn xin bần tiện, không sao chuyển hóa tư tưởng nhanh chóng được, ông dùng kế mật, sai hai người tiều tụy không oai đức tìm rủ con ông vào nhà, mướn làm cái việc ti tiện là hốt phân. Người con thì rất bằng lòng nhận lấy việc làm nầy.
Cũng vậy, Phật biết chúng sanh thường sống trong vô minh, phiền não, nghèo nàn trí tuệ, không thể dạy thẳng cho chân lý Nhất Thừa. Không thể nói rằng tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành, cho nên phải phương tiện nói có hai thừa sai hai người không uy đức làm môi giới dẫn dụ chúng sanh cùng tử lần lần vào nhà Tri Kiến Phật, nhưng chàng cùng tử thì rất bằng lòng làm cái việc hốt phân ti tiện để đổi lấy giá tiền công nhật rất ít của
chính cha mình.
Muốn gần con để lần hồi dạy bảo dẫn dụ, cha đổi quần áo sang trọng, mặc áo bả trỉn dơ, ví cho Phật ứng thân hạ liệt để gần gũi chúng sanh trong đời ngũ trược.
Gặp được con, cha khuyến khích làm việc, ví như Phật nhắc nhở tinh tấn tu hành. Hứa ban thưởng xứng đáng, muốn gì được nấy, ví như Phật hứa cho Niết bàn của Tiểu thừa để cho chúng sanh quen dần, lần hồi sử dụng châu báu trí tuệ trong cái gia tài đồ sộ Tri kiến Phật.
Cha có bệnh gọi con giao gia tài quản lý, như Phật đem Tri kiến Phật dạy bảo tu tập. Nhưng con không dám dùng, cũng như không có ý muốn dùng, đó là lòng hoài nghi của tất cả chúng sanh, đối với khả năng thành Phật của mình.
Đến giờ sắp chết cha hội thân tộc tuyên bố chàng cùng tử là con ruột và trao cho tất cả sản nghiệp, bấy lâu nay tập cho chàng thu xuất nay đã thông thuộc, ví như khi sắp nhập Niết bàn trong một hội Pháp Hoa Phật thọ ký: Tất cả chúng sanh sẽ thành Phật. Kho tàng pháp bảo vô giá mà bấy lâu nay dạy dỗ, tập cho sử dụng, nay trao trọn cho tất cả chúng sanh, con Phật.
Con vui mừng, nghĩ thầm: kho tàng trân bảo vô giá nầy, ta không cầu mà có, tự nhiên mà
được! Chân lý thì không phải vậy. Tri Kiến Phật, Như Lai Viên Giác Diệu Tâm là cái tất cả chúng sanh vốn có.
(1) Tam tế:
1. Vô minh nghiệp tướng
2. Năng kiến tướng
3. Cảnh giới tướng
(2) Lục thô:
1. Trí tướng
2. Tương tục tướng
3. Chấp thủ tướng
4. Kế danh tự tướng
5. Khởi nghiệp tướng
6. Nghiệp hệ khổ tướng








PHẨM 5
DƯỢC THẢO DỤ
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ông Ca Diếp và các đại đệ tử: Tốt lắm, Ca Diếp! Ông khéo nói
được công đức chân thật của Như Lai. Đúng như lời các ông, Như Lai còn có vô lượng vô số công đức khác, dù các ông có nói suốt ức kiếp đi nữa cũng không hết được.
Ca Diếp, nên biết! Như Lai là vua của các pháp, nói ra lời gì đều không sai không dối.
Đối với tất cả pháp, Phật dùng sức trí tuệ và phương tiện mà diễn nói. Pháp Phật nói phát
xuất từ “Nhất thiết chủng trí”. Như Lai biết chỗ quy thú của tất cả pháp; rõ biết tâm hành của chúng sinh và thường đem trí tuệ mà chỉ bày cho.

Ca Diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên đất đai sông núi sanh ra cây cối lùm rừng và các thứ cỏ thuốc, chủng loại, tên gọi, màu sắc đều khác. Một vầng mây đen, bủa giăng trùm khắp và mưa xuống khắp nơi nhuần thắm. Cây cối, lùm rừng, các thứ cỏ thuốc, cây lớn, cây vừa, cây nhỏ, thứ nên thuốc, thứ không nên thuốc, tùy hạng thượng, trung, hạ mà hấp thụ nước khác nhau. Một vầng mây tuôn mưa, tùy giống loại mà sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dù một cõi đất sanh, một trận mưa thắm mà cây cỏ đều sai khác.
Ca Diếp, nên biết! Như Lai hiện ra đời ví như vầng mây lớn hiện ra ấy. Giữa trời, A tu la….trong ba ngàn thế giới, Phật đường hoàng tuyên bố:
“Ta là đấng Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn. Người chưa được độ thì làm cho được độ. Người chưa tỏ ngộ thì làm cho ngộ. Người chưa an thì làm cho an. Người chưa có Niết bàn thì làm cho chứng. Đời nầy và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, là bậc trí đạo, bậc khai đạo, bậc thuyết đạo. Hàng trời, người, A tu la đều nên đến để nghe và học pháp”.
Bấy giờ có vô số chúng sanh đến với Phật để nghe pháp. Như Lai xét căn tánh chúng sanh thông minh hay ám độn, tinh tấn hay giải đãi, tùy cơ, vừa sức mà nói pháp, khiến
cho các chủng loại đều được sự lợi lành. Hiện đời được an ổn, lần lần tiến lên đường đạo,
đời sau được sanh vào quốc độ thánh thiện an vui.
Như Lai thuyết pháp chỉ có một tướng, một vị, nghĩa là tướng giải thoát, tướng viễn ly, tướng Niết bàn tịch diệt, quy về tướng không, rốt ráo đến bậc “Nhất thiết chủng trí”, vì Như Lai biết chủng tánh, thể tướng của chúng sanh nhớ gì, nghĩ gì, tu gì, nhớ thế nào, nghĩ thế nào, tu thế nào, Như Lai đều thấy biết đúng như thật, còn cây cối lùm rừng cỏ thuốc không thể biết tánh, thượng, hạ của nó.
Phật biết như vậy, rồi xem xét tâm ưa muốn của từng đối tượng mà dắt dẫn, cho nên không dạy liền cho chúng sanh về “Nhất thiết chủng trí”.
Ca Diếp! Sự nhận thức của các ông hi hữu. Các ông đã biết rõ Như Lai tùy cơ nghi nói pháp khó tin khó hiểu, nay mà các ông đã tin tốt và tiếp nhận tốt.
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ: Ca Diếp! Ông nên biết
Ta dùng các nhân duyên
Và nói nhiều thí dụ
Để chỉ bày đạo Phật
Đó là phương tiện của ta
Các Đức Phật cũng thế
Nay ta vì các ông
Nói việc chân thật nầy Quả chứng của Thanh văn Chưa phải thật diệt độ
Đạo sở hành của các ông
Phải là Bồ tát đạo Học tu tiến lên dần Tất cả sẽ thành Phật
THÂM NGHĨA
Dược thảo dụ là lấy các loại cây cối và thảo mộc có tánh chất nên thuốc, ví cho ba hạng người có căn tánh bậc thượng, bậc trung và bậc hạ. Đó là Thanh van, Duyên giác và Bồ tát. Ngoài ra, còn loại cây lùm rừng, những thứ “không nên thuốc” gì hết, cũng được đề cập chung với dược thảo nầy, để nói sự có mặt, sự hưởng thụ nước của một trận mưa bình đẳng của một số giống loại cỏ cây, nhưng là cỏ cây vô dụng. Đó là th ứcỏ cây sanh trưởng thuộc vùng đất “bạc địa phàm phu”
Phật thuyết pháp bình đẳng. Thật lý mà nói chỉ có một Phật thừa. Trong những kinh điển thường được xem là Tiểu thừa vẫn có cái mầm Đại thừa, có tư tưởng tối thượng thừa trong đó. Tùy trí tuệ nhận thức của từng căn tánh, từng đối tượng mà thấy có hoặc
không. Giống như, cùng nhìn một bầu trời cảnh vật ngày xuân, thấy quang cảnh đẹp hồng hay ảm đạm âm u là tùy cặp kính hồng hay đen mà mình mang trên mắt.
Để chứng minh cụ thể, ta cùng đọc một đoạn kinh A hàm thuộc hệ tư tưởng Tiểu thừa. “Nầy các Tỳ kheo! Tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên cây đuốc trí tuệ của mình, đừng
ỷ lại nương theo ai khác. Tự mình quy y với mình, quy y với tự tánh mình, đừng hướng ngoại, quy y với ai khác”.
Thế mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác từ lâu, đối với Đại thừa Diệu pháp không hiểu biết chút nào, tự xem như mình không được dự phần. Rõ ràng, do sự hấp thụ của từng loại
cây cối, chủng loại cỏ thuốc mà giá trị trưởng dưỡng khác nhau, còn nước mưa từ một vầng mây tuôn xuống thì chỉ có một tánh đượm nhuần. Tất cả giáo pháp của Như Lai chỉ có một tướng là tướng Giác ngộ và Giải thoát.
Học giáo lý phẩm dược thảo dụ, người chủng tánh Đại thừa cảm nhận sâu sắc nỗi khó khăn của đức Phật trên bước đường hóa độ chúng sanh và hiểu rõ lý do: Vì sao thời gian
trước, chính Phật đã từng giảng dạy có “ba thừa” mà nay thì Như Lai lúc nào cũng dường như sẵn sàng quở trách!








PHẨM 6
THỌ KÝ
Bấy giờ Thế Tôn bảo đại chúng: Ma Ha Ca Diếp ở đời vị lai sẽ phụng thờ 300 muôn ức Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen và nói vô lượng đại pháp của chư Phật. Thân rốt sau được thành Phật hiệu là Quang Minh đủ mười đức hiệu. Nước tên là Quang Đức. Kiếp tên Đại-trang-nghiêm. Phật thọ 12 tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp không có các thứ dơ xấu, không sạch.
Đất đai bằng thẳng, lưu ly trong suốt, cây báu thẳng hàng, vàng ròng làm dây trang trí bên đường, hoa báu thơm đẹp tung rãi khắp nơi. Bồ tát và Thanh văn số đông vô lượng. Dầu có ma và dân ma, nhưng không có việc ma, họ luôn luôn hộ trì Phật pháp.
Nói xong, Phật thuyết một bài kệ lập lại ý trên.
Lúc bấy giờ ngài Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Đại Ca Diếp.v.v..thảy đều run sợ. Chấp tay chiêm ngưỡng Phật và cùng có chung một tâm niệm đại ý như sau: Thế Tôn, nếu thấu rõ lòng chúng con, xin ban cho chúng con lời thọ ký để được an lòng. Chúng con biết lỗi của Tiểu thừa, nhưng chưa tin khả năng của mình có thể được Phật tuệ. Chúng con ví như người đói gặp bữa tiệc vua, nhưng chưa dám ăn. Dù nghe Phật nói tất cả sẽ thành Phật, nhưng chưa được Phật thọ ký thì lòng chúng con vẫn còn lo ngại. Phật thọ ký rồi, lòng chúng con thỏa mãn, như kẻ đói được bảo ăn.
Biết tâm niệm của các đệ tử, Thế Tôn bèn bảo:
“Ông Tu Bồ Đề, ở đời vị lai sẽ phụng thờ 300 muôn ức Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, tròn đủ đạo Bồ tát. Thân rốt sau thành Phật hiệu Danh Tướng Như Lai, đầy đủ mười đức hiệu. Kiếp tên Hữu Bửu, nước tên Bửu Sanh, quốc độ bằng thẳng, đất lưu ly, cây báu trang nghiêm, hoa báu khắp đất. Không có các thứ nhiễm ô bất tịnh. Dân cõi nước đó chỗ ở đẹp đẽ, nguy nga, tráng lệ. Hàng đệ tử Thanh Văn đông không kể xiết. Chúng Bồ tát vô số ức na do tha. Đức Phật thọ 12 tiểu kiếp. Chánh pháp trụ ở đời 20 tiểu kiếp. Phật thường trụ trong hư không thuyết pháp độ thoát vô lượng Bồ tátvà Thanh Văn.
Rồi đức Thế Tôn cũng nói bài kệ lập lại ý nghĩa trên.
Đức Thế Tôn dạy tiếp: Ông Ca Chiên Diên đời vị lai dùng các đồ cúng dường và phụng thờ 8.000 ức Phật. Sau khi chư Phật diệt độ, ông dựng tháp cao 1.000 do tuần, rộng 500 do tuần, toàn bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách, còn cúng các thứ hoa thơm, chuỗi ngọc, hương xoa, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan….làm cho tháp miếu huy hoàng tráng lệ. Sau đó, lại cúng dường 20 muôn ức Phật nữa. Bấy giờ đầy đủ đạo Bồ tát, ông sẽ được thành Phật hiệu Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai đủ mười đức hiệu. Quốc độ của Phật toàn thất bảo hợp thành. Lan can trang trí bằng vàng ròng, châu ngọc báu lạ, cõi nước của Phật Kim Quang Như Lai không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và A tu la. Chỉ có Trời, người và vô lượng Thanh Văn, Bồ tát. Phật thọ mạng 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ thế 20 tiểu kiếp, tượng pháp cũng vậy.
Đức Thế Tôn tuyên lại ý nghĩa trên bằng một bài kệ:
Sau hết, Đức Phật thọ ký cho ông Đại Mục Kiền Liên sau nầy sẽ cúng dường 8.000 ức Phật. Sau các Phật diệt độ, dựng tháp miếu cao 1.000 do tuần, rộng 500 do tuần, cũng toàn bằng thất bảo. Trang trí hương hoa, chuỗi ngọc, vàng ròng, lọng nhiễu, tràng phan….để cúng dường trang nghiêm tháp miếu.
Sau đó, lại cúng dường 200 muôn ức Phật, rồi được thành Phật hiệu: Đa-ma-la-bạt-chiên-
đàn-hương đủ mười đức hiệu. Kiếp tên Hi Mãn, nước tên Ý Lạc. Quốc độ bằng thẳng. Đất pha lê cây vàng, lá bạc, hoa trân châu, khắp nơi sạch sẽ, ai thấy cũng hoan hỉ. Trời người vô số, Thanh Văn, Bồ tát không thể đếm xiết. Phật thọ 24 tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế 40 tiểu kiếp, tượng pháp cũng vậy.
Để tuyên lại ý nghĩa trên, đức Thế Tôn nói một bài kệ:
…Các đệ tử của ta
Bậc oai đức đầy đủ Số đó năm trăm người Ta đều sẽ thọ ký
Ở nơi đời vị lai
Đều sẽ được thành Phật
Ta cùng với các ông Đời trước kết nhân duyên Ta nay đã thuật nói
Các ông khéo lóng nghe
THÂM NGHĨA
Thọ ký là một môn đặc biệt, chỉ có trong kinh giáo thuộc hệ tư tưởng tối thượng thừa. Khó mà định nghĩa gọn gàng giản đơn về hai chữ “thọ ký”.
*Rằng “thọ ký” tức là dự đoán. Không phải. Vì dự đoán có thể đúng hoặc cũng có thể sai.
*Rằng “thọ ký” giống như tiên tri. Không đúng. Vì tiên tri chỉ có nghĩa là biết việc sau nầy, mà cũng không lấy gì bảo đảm!
*Rằng “thọ ký” giống như một mệnh lệnh tối thượng “phán” truyền. Càng không thể chấp nhận, vì “thọ ký” không phải là sự đền ơn hay một ân sủng của đấng chúa tể nào hay
một vị thần quyền thiêng liêng tối thượng.
Thọ ký là nói lên một sự thật, một chân lý tất yếu tất nhiên. Sự thật ấy sẽ được hiện thực trong tương lai và đã hiện thực trong ngược dòng quá khứ. Cho nên bộ môn “thọ ký” được xem là một thông lệ của ba đời chư Phật thường làm. Làm trong lúc sắp kết thúc cuộc hành trình giáo hóa chúng sanh và chỉ đến lúc chúng sanh có thể nhận biết khả năng thành Phật của mình, Phật mới đem sự thật nầy ra dạy bảo.
Thành Phật có nghĩa l2 đạt đến địa vị giác ngộ chân lý hoàn toàn và giải thoát vô minh trọn vẹn. Phật đã đạt đến, chúng sanh tu hành rồi cũng sẽ đạt đến, vì chúng sanh sẵn có Tri Kiến Phật rồi.
Ông Tu Bồ Đề, Đại Ca Diếp, Đại Mục Kiền Liên v.v..được thọ ký thành Phật sau nầy. Đó là đức Phật nói ra một sự thật. Chẳng những hàng Thanh Văn, Duyên Giác ở trong hải hội Pháp Hoa được thọ ký mà còn nhiều hạng người khác cũng sẽ được thọ ký dài dài…Đó là chỗ dụng nghĩa thầm kín, sâu xa của bộ môn thọ ký trong hệ giáo lý tối
thượng thừa.
Là Phật thì Phật nào cũng đầy đủ ba đức: Pháp Thân, Báp Nhã và Giải Thoát. Nói một cách đơn giản dễ hiểu là Phật nào cũng có Bồ đề và Niết bàn. Cho nên quốc độ của Phật thì dứt khoát không có điều kiện ô nhiễm môi trường, cũng không có lý do sanh ra sự khổ đau hoặc xấu xí.
…”Hằng dụng giới hương đồ vinh thể
Thường trì định phục dĩ tư thân Bồ đề diệu hoa biến trang nghiêm Tùy sở trụ xứ thường an lạc…”
Lấy giới làm phấn để thoa thân Dùng định làm áo mặc hằng ngày Hái hoa trí tuệ làm vật trang điểm.
Vì vậy, người đó ở đâu thì chỗ đó trở nên an lạc.
Quốc độ của chư Phật thanh tịnh trang nghiêm đẹp đẽ, pháp xuất từ chân lý: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắt Phật độ tịnh”.
Thật lý mà suy. Nếu toàn quốc độ cấu tạo bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, san ho, hổ phách…thì các thứ ấy còn quý giá gì nữa mà ham! Đó là Như Lai vận dụng lối thuyết pháp “phổ vị thế giới tất đàn”, nói cho đẹp lòng vừa ý, êm tai để “dụ” những chúng sanh còn nặng lòng tham lam báu vật.
“Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng, huyển, bào, ảnh Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán”
Có đức Phật nào quên chân lý ấy đâu. Dù là vàng bạc, lưu ly, pha lê…vẫn là “pháp hữu vi”. Mà “pháp hữu vi” thì như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, như chớp rốt cuộc chẳng có gì!
Vấn đề cúng dường, đọc cho đúng thì nên đọc là “cung dưỡng” có nghĩa là vun bồi cung cấp và bồi dưỡng cho tăng trưởng thêm lên. Để đem lại hiệu quả cứu cánh giải thoát giác ngộ, người đệ tử Phật có hai cách “cúng dường”:
Một, là cúng dường Phật tánh. Quay về với “bản lai diện mục” với tự tánh thanh tịnh bản nhiên vốn có của con người, hàng ngày sinh hoạt không rời Tri Kiến Phật. Đó là cách cúng dường Phật tánh.
Hai, là cúng dường Pháp tánh. Hành động trong vạn pháp. Xây dựng, trang trí, thẩm mỹ, nghệ thuật từ vạn pháp duyên sanh có ra. Là một Bồ tát hạnh, vì mục đích giải thoát giác ngộ, Bồ tát không né tránh, không từ nan, không sợ tiêm nhiễm vì giá trị quý giá của những vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách….ấy. Do vậy, dù sử dụng thất bảo xây tháp, nhưng thất bảo ấy trở thành “pháp tánh”, một thứ pháp mà tự tánh của nó vốn thanh tịnh bản nhiên. Người xây tháp và nguyên liệu xây tháp không có tính dính mắc gì nhau. Đó là việc làm biểu thị về nghị lực của Bồ tát là “tâm cảnh như như”. Cho nên việc xây tháp miếu cúng dường như thế là hành động thả một cầu phao
mà vớt cả hai con thuyền. Dựa trên Pháp tánh mà tôi luyện Phật tánh của mình. Đứng vững ở Phật tánh mình mà bồi dưỡng đức thanh tịnh bản nhiên của Pháp tánh, vì Phật tánh và Pháp tánh không hai.
Phật mỗi vị có một đức hiệu riêng, vì khi tu nhơn hành Bồ tát đạo mỗi vị riêng có một
tâm đắc, một sở trường. Điều đó cũng còn có nghĩa là pháp tu, pháp hành của các Bồ tát trong lúc tu nhơn không có một nguyên tắc chung nào gò bó. Ai tu pháp môn gì cũng được, miễn là đừng lạc vào tà đạo, mê tín dị đoan, hoang đường, ảo tưởng là tốt. Đối
với nền giáo lý Phật thì phóng khoáng và tôn trọng dân chủ tuyệt đỉnh từ đầu, cho nên kinh điển Phật có câu: “Vô lượng pháp môn tu”.
Do tu nhơn sai khác cho nên thành quả cũng sai khác. Đến như việc thọ mạng dài ngắn, đệ tử ít nhiều mỗi mỗi đều khác biệt, nhưng tất cả chư Phật đều có một thành tựu chung, cùng đến cái đích cứu cánh là:
Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác








PHẨM 7
HÓA THÀNH DỤ
Phật bảo các thầy Tỳ kheo: Thuở quá khứ, vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp. Hồi ấy có đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Nước của Phật tên Hảo Thành. Kiếp tên Đại Tướng. Từ đức Phật đó diệt độ đến nay rất lâu xa. Ví như đất của cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi 1.000 cõi nước ở phương đông, chấm một điểm chừng như hạt bụi, lại đi qua 1.000 cõi nước nữa cũng

chấm một điểm, cứ như thế, lần lượt chấm cho hết nước mực nói trên.
Nầy các Tỳ kheo! Những cõi nước của người đó qua, hoặc có chấm mực, hoặc không có chấm mực, đều đem nghiền nát ra làm bụi. Một hạt bụi kể là một kiếp. Từ đức Phật đó diệt độ đến nay lâu hơn số đó vô lượng nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Ta dùng sức Tri Kiến Như Lai xem việc lâu xa đó, dường như việc ở hiên nay.
Đức Đại Thông Trí Thắng thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp. Lúc ngồi đạo tràng, phá xong ma quân, sắp thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà pháp Phật chẳng hiên ra. Tiếp tục Ngài ngồi kiết già “thân tâm bất động” trải một tiểu kiếp, rồi mười tiểu kiếp mà pháp Phật vẫn chẳng hiện ra.
Thuở đó, các trời Đao Lợi, vì Phật trang trí một tòa sư tử dưới cội cây Bồ đề, Phật ngồi lên tòa thì chứng Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các chư thiên tiếp tục rải hoa
cúng dường. Các Trời Tứ Thiên Vương v.v…cũng trổi nhạc đánh trống…mãn 50 tiểu kiếp
đến lúc Phật nhập Niết bàn.
Nầy các Tỳ kheo! Đại Thông Trí Thắng Phật, trải quá trình “bất động” mười tiểu kiếp pháp Phật mới hiện ra.
Lúc Phật chưa xuất gia, có 16 người con trai. Người con cả tên là Trí Tích. Các người
con đều có các thứ đồ chơi tốt đẹp và báu lạ, nghe cha chứng quả Vô thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, đều bỏ đồ chơi báu của mình, đến chỗ Phật. Các bà mẹ khóc lóc theo đưa.
Ông nội là Chuyển Luân Thánh Vương cùng 100 vị đại thần và muôn ức nhân dân khác cùng nhau đến đạo tràng, gần gũi Đại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen.
Nghĩ đến sự an ổn lợi ích của Trời, người, 16 vị vương tử thỉnh cầu đức Thế Tôn chuyển pháp luân độ thoát chúng sanh.
Phật bảo các tỳ kheo! Lúc Đại Thông Trí Thắng thành Phật, cõi nước của chư Phật trong mười phương đều chấn động sáu cách. Những chỗ tối tăm bừng sáng, các chúng sanh đều được thấy nhau, và đồng nói: “Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh”.
Do ánh sáng cùng khắp mười phương. Bấy giờ chư Thiên, trời Phạm ở phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc, Đông nam, Tây nam, Đông bắc, Tây bắc, phương trên, phương dưới tìm đến chỗ Phật dâng các thứ hương hoa, trân bảo, kỷ nhạc, tràng phan, cung điện v.v…cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen và một lòng cầu xin đức Đại Thông Trí Thắng Phật chuyển pháp luân độ thoát cho hàng Trời, người.
Đức Đại Thông Trí Thắng nhận lời của hàng chư Thiên và 16 vị vương tử.
Trước hết, Đại Thông Trí Thắng Phật vận dụng ba lần chuyển pháp Tứ đế với 12 hành: “Đây là khổ. Đây là khổ tập. Đây là khổ diệt.Đây là đạo diệt khổ”.
Kế tiếp, Phật chuyển về 12 nhân duyên:
“Vô minh duyên hành. Hành duyên thức. Thức duyên danh sắc. Danh sắc duyên lục nhập. Lục nhập duyên xúc. Xúc duyên thọ. Thọ duyên ái. Ái duyên thủ. Thủ duyên hữu. Hữu duyên sanh. Sanh duyên lão, tử, ưu bi khổ não”.
“Vô minh diệt, hành diệt. Hành diệt, thức diệt. Thức diệt, danh sắc diệt. Danh sắc diệt, lục nhập diệt. Lục nhập diệt, xúc diệt. Xúc diệt, thọ diệt. Thọ diệt, ái diệt. Ái diệt, thủ diệt. Thủ diệt, hữu diệt. Hữu diệt, sanh diệt. Sanh diệt, lão, tử, ưu bi khổ não diệt”.
Phật nói pháp đó có 600 vạn ức na do tha người, không thọ tất cả pháp, mà phiền não hết tâm được giải thoát.
Lúc Phật nói lần thứ hai, lần thứ ba, có muôn ức hằng hà sa chúng sanh, cũng vì không thọ tất cả pháp mà vô minh phiền não hết, tâm được giải thoát. Từ đấy, các chúng Thanh Văn ngày càng nhiều vô lượng vô số không thể tính kể hết.
Bấy giờ 16 vị vương tử đều là đồng tử, xin xuất gia làm Sa di. Các Sa di nầy đều thông minh, bén nhạy. Trí tuệ sáng suốt, từng cúng dường trăm ngàn muôn ức Phật, siêng tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đồng bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Chúng Thanh Văn vô lượng đây, việc làm đã thành tựu, Thế Tôn nên vì chúng con nói pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chúng con nghe đồng tu học. Chí nguyện của chúng con thường mong được Tri Kiến Phật. Đó là chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm của chúng con, mong Phật biết cho.
Lúc bấy giờ, tám muôn ức người trong số tùy tùng Chuyển Luân Thánh Vương, thấy 16 vị vương tử xuất gia. Vua thuận cho.
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh cầu của 16 vị Sa di, qua hai muôn kiếp sau,
ở trong hàng tứ chúng, nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp
Phật Sở Hộ Niệm.
Phật nói kinh đó suốt tám ngàn kiếp không gián đoạn. Nói xong, Phật vào tịnh thất, trụ
trong thiền định tám muôn bốn ngàn kiếp.
Mười sáu vị Sa di bèn thay Phật lên pháp tòa rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng tám muôn bốn ngàn kiếp. Mỗi vị độ hằng sa chúng sanh pháp tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Qua tám muôn kiếp, đức Phật Đại Thông xuất định, bảo rằng: “16 Sa di thật là ít có. Vì các căn thông lợi, trí tuệ sắc bén, các hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát nếu biết gần gũi và kính tin thọ trì tu học Pháp của các vị ấy sẽ được đạo Vô thượng”.
Đức Phật Thích Ca bảo các Tỳ kheo: Hằng sa chúng sanh đã được 16 vị Sa di hóa độ, đời đời đều sanh ra cùng chung nghe pháp với các vị ấy và 16 vị ấy nay đã thành Phật với danh hiệu như:
Phật A Súc và Phật Tu Di Đảnh thành Phật ở phương Đông.
Phật Sư Tử Âm và Phật Sư Tử Tướng thành Phật ở phương Đông Nam. Phật Hư Không Trụ và Phật Thường Diệt thành Phật ở phương Nam. Phật Đế Tướng và Phật Phạm Tướng thành Phật ở phương Tây Nam.
Phật A Di Đà và Phật Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ não thành Phật ở phương Tây.
Phật Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông và Phật Tu Di Tướng thành Phật ở
phương Tây Bắc.
Phật Vân Tự Tại và Phật Vân Tự Tại Vương thành Phật ở phương Bắc. Phật Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy thành Phật ở phương Đông Bắc. Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật ở cõi Ta Bà.
Đức Phật Thích Ca nói tiếp: Các Tỳ kheo, lúc chúng ta làm Sa di, mỗi người giáo hóa vô lượng hằng sa chúng sanh, vì đạo vô thượng mà theo nghe pháp. Những chúng sanh đó, đến nay có người đã ở vào địa vị Thanh Văn, ta thường lấy pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà giáo hóa. Hằng sa chúng sanh được giáo hóa thuở đó, nay là Tỳ kheo các ông đó. Sau khi ta diệt độ, những Thanh Văn đời vị lai cũng là những chúng sanh đã kết duyên thuở ấy. Tuy vậy, cũng có hàng đệ tử không nghe kinh nầy, không hay không biết những hạnh của Bồ tát, tưởng được một ít công đức tu tập là đã diệt độ chứng đắc Niết bàn.
Nên biết, chỉ do Phật thừa mới được diệt độ, không có thừa nào khác. Nếu có khác thì đó chỉ là phương tiện của Như Lai vận dụng mà thôi.
Đến đây đức Phật Thích Ca đưa ra một tỷ dụ:
“Có một chỗ chứa nhiều của báu. Muốn đến nơi đó phải trải qua đường dài những 500 do tuần, nhiều nguy hiểm hoang vắng ghê sợ. Một nhóm người muốn đến nơi ấy để lấy của báu. Có một người thông minh nhiều hiểu biết dẫn đường. Dù vậy, vì đường dài, nhóm người ấy mệt nhọc, sợ sệt tỏ ý chán nản muốn lui về. Thương xót bọn người ấy sao lại có ý bỏ của báu muốn lui về. Vị dẫn đường bèn ở nơi hai phần đường, dùng phép lạ hóa ra một tòa thành và bảo nhóm người kia vào ở sẽ được an ổn sung sướng. Rồi muốn đi nữa để đến chỗ châu báu thì cũng tiện.
Nhóm người kia nghe theo, vào thành ở được an ổn và rất bằng lòng.
Khi biết nhóm người kia hết mỏi mệt, vị dẫn đường mới nói: “Thành ấy là do ta hóa ra để chúng ngươi tạm nghỉ mệt, chớ chưa phải là chỗ các vị cần đi đến. Hãy cố gắng lên, chỗ chứa châu báu gần đây”.
Cũng vậy, biết chúng sanh sợ con đường dài thành Phật, phải tinh tấn và cần khổ lắm mới đi đến chỗ cuối cùng, Phật như vị dẫn đường, phương tiện nói có hai thứ Niết bàn. Một cho Thanh Văn. Một cho Duyên Giác. Chúng sanh lại tưởng hai nơi đó là cứu cánh, Phật phải đưa sự thật ra mà dạy rõ:
Rằng sự tu hành đến quả vị Thanh Văn, Duyên Giác là chưa xong, cần phải tiến thêm lên nữa. Tuy vậy đừng sợ. Từ đây đến chỗ chứa châu báu gần và rất dễ đi.
THÂM NGHĨA
Đức Phật Thích Ca kể lại sự tích về quá trình hành đạo, chứng quả của đức Đại Thông Trí Thắng Phật cách đây bất khả thuyết, bất khả thuyết vô lượng a tăng kỳ kiếp. Thế mà, với Tri Kiến Phật sự kiện đó như là việc hiện tiền, Như Lai thấy biết không cần sự hồi ức khó khăn. Nói sự việc nầy, nhằm dạy cho người đệ tử Phật rằng: Tri Kiến Như Lai là
thứ thứ tri kiến bản thể. Hiện tượng duyên khởi hình thành lâu hay mau, sự kiện diễn biến sanh ra lớn hay nhỏ đều sanh khởi từ bản thể, hiện hữu trong bản thể “bất biến tùy duyên ấy”. Vì vậy, chuyên xa xưa hun hút ấy, với Tri Kiến Phật y như đang có hiện giờ.
Đã gọi là Phật hay thành Phật thì người đó phải là người đạt đến Giải Thoát, Giác Ngộ. Nói cách khác là người phải thực chứng quả vị Vô thượng Bồ đề và Vô thưnợg Niết bàn.
Trên đưnờg tu nhơn thành Phật, Định và Tuệ, ví như hai cánh của một con chim. Khi chim bay, hai cánh vận chuyển nhịp nhàng đồng bộ thì chim mới bay đến đích. Xệ đi một cánh thì chim chẳng bay được. Đức Phật Thích Ca cho biết Đức Phật Đại Thông Trí Thắng chuyên tâm Thiền Định trọn một tiểu kiếp hàng phục, phá ma quân rồi mà pháp Phật không hiện ra (Pháp Phật không hiện ra, có nghĩa là Trí tuệ chưa đầy đủ, Bồ đề chưa viên mãn).
Sau đó, tiếp tục thiền định thêm mười tiểu kiếp mà cũng chưa thành Phật. Cuối tiểu kiếp thứ 10 với sự hoạt động có tánh cải tạo xây dựng của chư Thiên, bấy giờ Đại Thông Trí Thắng ngồi lên tòa sư tử mới chứng thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiền định nhằm dứt bặt tâm thức, kiểu như chết lịm không tốt. Trong Phật pháp gọi đó là “khô định”. Thứ “định” không có “tuệ”. Nó chỉ có công dụng phá ma quân (tức là ngăn chặn hết vọng tưởng). Muốn thành Phật phải chuyển hóa các tâm sở, cải tạo tánh xấu, xây dựng đức tốt, ngăn dứt việc ác, phát triển hạnh lành. Khi tột đến đỉnh cao của Trí Tuệ lúc bấy giờ gọi là thành Phật.
Thành Phật là cái đích đến của một con người tu tập mong cầu. Nhưng vai trò của một vị Phật mà dừng ở đây thì chưa trọn vẹn, dù pháp Phật hiện ra. Bởi vì thành quả đạt được đó chỉ mới hoàn thành bên mặt “Tự giác, tự lợi”. Còn cần có sức cảm hóa, giáo dục và truyền bá cái chủ nghĩa, cái đạo lý giải thoát, giác ngộ đến mọi tầng lớp con người để hoàn thành nhiệm vụ “Giác tha, tha lợi” của một vị Phật.
Điều kiện và hoàn cảnh của Phật Đại Thông Trí Thắng thì trước cảm hóa người thân, và dần dần cảm hóa người thân của người thân. Làm cái việc cảm hóa, giáo dục và truyền bá chân lý, nói cách khác là truyền bá chánh pháp, cho đến hết cuộc đời, ngày mà người đời hiểu là Như Lai Diệt Độ.
Do vậy, là một đấng Thế Tôn thì đầy đủ hai nhiệm vụ: Tự Giác, Giác Tha cho nên Phật nào cũng được tôn xưng là đấng: Giác Hạnh Viên Mãn.
Thành Phật là ngày trở về “thể nhập bản thể chân như thanh tịnh” ấy cũng tức là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm của con người. Do vậy, Đại Thông Trí Thắng thành Phật, cõi nước của chư Phật, thế giới chư Thiên, trong mười phương đều sáng rỡ và rung động. Chúng sanh trong chín cõi đều được thấy rõ nhau. Ý thú đoạn kinh nầy nhằm nhắc lại một lần nữa cái chân lý: Tất cả là một và một là tất cả.
…”Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên…”
Khi mê thì sáu nẻo luân hồi cách phân ranh giới mịt mờ. Lúc giác thì quốc độ mười phương không còn có tướng hai.
Ở phẩm Tựa, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ vô lượng kiếp xa xưa thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, trước cũng nói pháp “Tứ đế”, kế nói “Thập nhị nhân duyên” hóa độ cho
hàng Tiểu thừa, sau rốt nói kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, độ cho hàng Đại thừa Bồ
tát thời gian 60 tiểu kiếp, rồi sau đó Phật tuyên bố sẽ nhập Niết bàn.
Ở phẩm nầy, cũng chuyện xa xưa, bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp Đại Thông Trí Thắng Như Lai sau khi chấp nhận lời thỉnh cầu của 16 vị Sa di và hàng trời, người cũng vận dụng “tam chuyển pháp luân”. Qua 12 cách gồm: 4 cách “thị chuyển”; 4 cách “khuyến chuyển” và 4 cách “chứng chuyển”.
Sau đó, chỉ dạy lối quán chiếu và thực hành pháp “Thập nhị nhân duyên” để diệt trừ sanh tử ưu bi khổ não. Sau hai muôn kiếp cũng nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói xong, Phật vào tịnh thất nhập thiền định tám muôn bốn ngàn kiếp.
Phật Thích Ca hiện nay cũng trước nói “tam thừa”, sau nói “nhất thừa” để đưa chúng sanh đến địa vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trước giờ phút Như Lai nhập Niết bàn, trí tuệ và phương tiện của Lai vận dụng thành một quy tắc. Quy tắc đó hữu hiệu trong việc giáo hóa chúng sanh.
Các vị Sa di là những người truyền đăng tục diệm hoằng dương chánh pháp, gieo rắc vào lòng người đạo lý Giải Thoát Giác Ngộ cho nên ai nghe, học hành theo đều đi đến Phật quả được.
Kinh thường nói Phật nào cũng có cha mẹ, vợ con và thường xuất thân từ gia đình vọng tộc có thể thỏa mãn mọi hưởng thụ trên đời. Vậy mà các vị không ham hưởng thụ. Để rồi từ đó xả tục xuất gia, trở thành bậc Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bởi vì theo
giáo lý truyền thống của đạo Phật, chỉ có hưởng thụ được thành quả “viễn ly” mới là người thật hưởng thụ cái “chân hạnh phúc”.
Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Sa di thứ 16, con út của Phật Đại Thông Trí Thắng. Các Tỳ
kheo và cư sĩ nam nữ ở hội Pháp Hoa hiện tại là những người từng nghe pháp của 16 vị
Sa di. Đọc ý thú lời kinh đó, mọi Phật tử chúng ta đừng vội khấn nguyện van xin “mau thành Phật” nhé! mà nên nhớ câu:
…”Hành tàng hư thật, tự gia tri Họa phúc nhơn do cánh vấn thùy Thiện ác đáo đầu chung hữu báo Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”…
“Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị
Yếu tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị”. Có nghĩa là:
Việc làm của mình đúng, sai mình biết hết rồi. Họa đến hay phúc đến không cần hỏi thầy bói, thầy tướng mà chi. Làm thiện được quả báo thiện, làm ác bị quả báo ác, chân lý là như vậy. Có điều quả báo đến sớm hoặc đến chậm mà thôi.
Còn muốn biết đời trước mình là người thế nào thì xem cuộc sống của bản thân, của gia đình trong hiện tại. Muốn biết sẽ vui hay khổ của thân sau thì trông vào tánh nết đức độ, cách ăn ở của mình đối với mọi người trong hiện tại.
Tóm lại, sự tu hành cầu thành Phật cũng như sự làm lụng để được nhà giàu. Làm nhiều, siêng năng thì mau giàu; làm ít, lâu giàu; lười biếng nghèo suốt đời. Ước ao không được gì. Khấn nguyện van xin cũng không được gì.
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là kinh tối thượng thừa, là thứ chân lý cứu cánh. Phật nói kinh nầy rồi là đã làm xong nhiệm vụ truyền đạt chánh pháp, trao trọn gia bảo của Như Lai. Chúng sanh nghe, học, hành theo kinh nầy quyết định thành tựu quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì vậy Phật xa xưa cũng như Phật Thích Ca hiện tại, nói kinh Pháp Hoa xong là tuyên bố sẽ nhập Niết bàn mà vào thất an trụ thiền định tám muôn bốn ngàn kiếp, thì cũng không nói thêm gì nữa được, y như đã nhập Niết bàn rồi vậy.







PHẨM 8
NGŨ BÁCH ĐỆ TỬ THỌ KÝ
Ông Phú Lâu Na sau khi nghe Phật nói về những phương tiện tùy cơ thuyết pháp….lại nghe Phật thọ ký cho các vị đệ tử lớn, lại nghe việc nhân duyên đời trước….và sức tự tại thần thông của chư Phật trong lòng hớn hở bèn quỳ gối đảnh lễ Phật và bạch rằng:

“Như Lai Thế Tôn thật là hi hữu, làm việc khó làm, thuận theo tâm tánh của vô lượng chúng sanh mà thuyết pháp cứu vớt. Chúng con không thể dùng lời nói tuyên bày cho hết công đức của Thế Tôn. Nhưng xin Thế Tôn biết bổn nguyện trong thâm tâm của chúng con”.
Phật bèn nhắc công phu tu hành của ông Phú Lâu Na ở các tiền kiếp: rằng ở 90 ức đức Phật thuở quá khứ, Phú Lâu Na từng hộ trì, phụ trợ tuyên bày chánh pháp của Phật. Ông là người bậc nhất trong số người thuyết pháp thuở đó. Về nghĩa “không” của các pháp ông thông suốt tận tường, đầy đủ “bốn trí vô ngại”, thường hay suy gẫm sâu xa, nói pháp thanh tịnh không chỗ nghi lầm. Tuy ông đầy đủ việc làm của Bồ tát, mà người thời bấy giờ đều hiểu ông là Thanh Văn thật. Ông dùng phương tiện qua hình thức Thanh Văn mà
làm lợi ích vô số chúng sanh và giáo hóa vô số người khởi lòng tin vững chắc nơi đạo Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Các Tỳ kheo, ở vào thời bảy đức Phật quá khứ, Phú Lâu Na cũng là bậc nhất trong hàng người nói pháp, trong tương lai ông cũng là người bậc nhất và hộ trì truyền bá chánh pháp của vô lượng vô biên chư Phật. Vì muốn xây dựng cõi Phật thanh tịnh mà Phú Lâu Na thường tinh tiến giáo hóa chúng sanh lần lần đầy đủ đạo Bồ tát. Nhờ đó mà qua vô lượng kiếp sau, Phú Lâu Na sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Minh, lấy hằng sa tam thiên, đại
thiên thế giới làm thành một cõi Phật, lấy bảy báu làm đất. Cõi nước bằng phẳng như mặt bàn tay, không núi đồi, khe rãnh, gò nỗng, ghồ ghề. Đài thất bảo dẫy đầy, cung điện của chư Thiên gần với hư không, Trời, người giao tiếp nhau và đều thấy được nhau, không ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh), cũng không có người nữ.
Chúng sanh cõi ấy thần thông tự tại, chí nguyện bền chắc, tinh tấn và trí tuệ. Nhân dân nước ấy thường sử dụng hai cách ăn: Một là “thiền duyệt”. Hai là “pháp hỉ”.
Bồ tát cõi đó đông vô số, Thanh Văn cũng vậy. Nước Phật tên là Thiện Tịnh. Kiếp tên
Bửu Minh.
Để lập lại nghĩa trên, đức Phật nói một bài kệ….
Bấy giờ 1.200 vị La Hán, những vị tâm được tự tại nghĩ rằng: Nếu Phật đều thọ ký cho mình như đã thọ ký cho các vị đệ tử lớn thì sung sướng biết bao. Đức Phật biết tâm niệm đó, bèn lần lượt thọ ký cho 500 vị A La Hớn. Trước hết là Tỳ kheo Kiều Trần Như và tất cả đều sẽ thành Phật đồng một hiệu là Phổ Minh.
Được thọ ký xong, 500 A La Hớn vui mừng lễ Phật thưa:
Bạch Thế Tôn! Từ trước tới nay chúng con cứ tưởng là mình được diệt độ rồi. Nay mới biết chúng con vô trí. Vì sao? Vì đáng được trí tuệ của Như Lai mà cứ bằng lòng với trí nhỏ của mình cho là đủ. Rồi các vị đồng tâm, trình lên Phật một thí dụ:
Trong kho tàng Phật báu, chúng con mới được một phần mà tự cho là đủ. Chẳng khác
một người nghèo đến chơi nhà bạn thân giàu lớn. Tiệc rượu xong, anh nghèo xay vùi nằm ngủ. Bạn giàu vì có việc đi xa gấp, bèn lấy một viên ngọc vô giá buộc vào vạt áo của bạn say để tặng. Hết say anh nghèo ra đi, không hay trong người có ngọc. Đến một nước khác cầu y cầu thực làm ăn vất vả, mỗi khi được một ít của cải tự cho là đủ, không dám mong một tình cảnh tốt đẹp hơn. Về sau anh bạn giàu gặp trở lại anh bạn nghèo, thấy bạn khốn khổ quá mới trách: Sao không dùng viên ngọc trong vạt áo để kinh doanh, tạo cho mình một cuộc sống giàu sang. Chừng ấy anh nghèo mới hay là mình giàu, liền dùng vốn ấy
mà kinh doanh và trở nên giàu có.
Các vị A La Hớn kết luận: chúng con cũng như vậy, từ lâu xưa, Thế Tôn thường giáo hóa cho. Vậy là Thế Tôn đã gieo trong lòng chúng con hạt giống Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thế mà chúng con vô trí không hay không biết, được chút phần Niết bàn
cho là đã đủ rồi, không cần gì nữa. Nay Phật giác ngộ cho chúng con, dạy cho biết phải
được Phật tuệ Vô thượng mới thật là Diệt độ.
THÂM NGHĨA
Phật thọ ký cho 500 đệ tử Thanh Văn, đọc tụng phẩm kinh nầy cần quan tâm về hiện tượng Phú Lâu Na, Phú Lâu Na là một trong mười đệ tử Phật được tôn vinh vào hàng “đệ nhất” theo sở trường của môi vị.
Phú Lâu Na được Phật khen thuyết pháp “đệ nhất” trong hàng đệ tử Thanh Văn. Việc đó, có nguyên nhân chánh đáng, không phải chuyện ngẫu nhiên. Bởi vì thời quá khứ, ông
Phú Lâu Na cũng từng cộng sự trợ tuyên chánh pháp với 90 ức đức Phật, thời Phật nào cũng được ngợi khen như vậy. Giờ đây đức Phật Thích Ca cho ông ở tương lai ông cũng là người “thuyết pháp đệ nhất” giúp chư Phật giáo hóa chúng sanh, để rồi sau đó ông thành Phật với hiệu Phổ Minh, có nghĩa là ông gieo rắc ánh sáng trí tuệ khắp đến mọi người.
Phật nói lại sự kiện nầy, cũng như thọ ký cho ông Phú Lâu Na sắp tới, dạy cho Phật tử hậu lai bài pháp sâu xa về giáo lý Nhân Quả. Muốn có quả phải gieo nhân và chăm nom vun bồi liên tục cái nhân ấy. Thuyết pháp giỏi là chính mình đã gieo sâu hạt giống đa văn Phật pháp. Giáo hóa chúng sanh là truyền đạt cho mọi người ánh sánh trí tuệ giải thoát
giác ngộ. Vì vậy ông Phú Lâu Na được Phật thọ ký thành Phật hiệu Phổ Minh. Từ nhận xét đó, ta thấy rõ Nhân quả không sai và Nhân quả không đời nào mất.
Sự nghiệp thuyết pháp độ sanh trong quá khứ của ông Phú Lâu Na đáng được ghi vào “bảng công đức vàng son oanh liệt”, Phật sự hiện tại của ông là một trong những người được Phật khen là “đệ nhất”. Thế mà ông chưa thành Phật cũng như ông tha thiết mong cầu thành Phật ở kiếp nầy. Điều đó thể hiện Đại thừa chủng tánh ở trong ông, cho nên Phật mới gọi ông là “Thanh Văn ngoài, bên trong là Bồ tát” (Nội bí Bồ tát, ngoại hiện Thanh Văn tướng), Vì vậy mà đối với ông thành Phật sớm hay muộn không phải là việc cần để tâm mong ước.
Giới hương làm phấn thoa thân
Choàng manh áo định tư sanh hình hài
Bồ Đề hoa hái trang cài
Niết bàn tại chỗ ta ngồi thưởng trăng…
Việc thọ ký chúng sanh thành Phật là một khía cạnh trong hoài bảo của Như Lai xuất hiện ở đời. Nhưng không thể thọ ký xô bồ, ồ ạt. Dù rằng quả Phật là bình đẳng, mọi người đều có khả năng đạt đến. Song quá trình hoạt động trong cuộc sống, động lực pháp tâm chí nguyện tu hành của mỗi người đều khác biệt. Như Lai thọ ký từng đợt có trước có sau đều có ý nghĩa. Tất cả mọi người đều bình đẳng, mọi người đều có quyền
thụ hưởng thành quả do ý chí, nghị lực, khả năng tu tập của mình. Trước tiên, ông Xá Lợi Phất, kế tiếp nhóm ông Tu Bồ Đề. Đến đây ông Phú Lâu Na và 500 đệ tử lớn. Những vị nầy nhất trí với nhau, xin Phật được trình bày cái thí dụ: “Hạt ngọc trong vạt áo” để nói lên nỗi lòng hối hận vì sự sai trái của mình khi chưa có điều kiện tu học Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh.
Cái thí dụ “Hạt ngọc trong vạt áo” còn nói lên nỗi lòng xúc động sâu xa: Giờ đây mới biết mình là con Phật. Từ lâu với ý chí thấp hèn và tự mãn, bằng lòng với quả vị Nhị thừa. Lại ngỡ rằng mình đã tuyệt phần, không có khả năng vói tới quả Phật. Quả là “chàng cùng tử đáng thương. Ôi! Một bạn hữu vô cùng cao đẹp đáng kính biết bao! Bạn đã cho hạt ngọc vô giá buộc vào vạt áo. Vậy mà bao tháng năm khổ cực vất vả để đổi lấy cái ăn, cái mặc tầm thường mà đã bằng lòng mãn nguyện.
Giờ đây không còn là cùng tử ấy mà là người cự phú nhất đời.
Từ lâu không biết mình có hạt ngọc vô giá bởi khi người bạn tốt tặng cho là lúc bị hôn mê cơn say chưa tỉnh.
“Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” !
Phật là người bạn tốt vô vàn khả kính, còn “cùng tử” khốn khổ kia là những Phật tử
chúng ta đang hôn mê trong đêm trường cùng đồng sàng mà quá nhiều dị mộng.








PHẨM 9
THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ
Lúc bấy giờ A Nan và La hầu La nghĩ thầm: “Nếu mỗi chúng ta đều được thọ ký thì sung sướng biết bao”. Hai vị liền đến trước Phật làm lễ, bạch rằnt: “Chúng con nghĩ cũng có phần được thọ ký, vì bao giờ cũng quy hướng về Như Lai. Lại chúng con là người quen biết của tất cả trời, người và A-tu-la trong thế gian. A Nan là người hầu và hộ trì tạng pháp, còn La Hầu La là con của Phật, nếu hai chúng con được thọ ký thì nguyện của chúng con sẽ mãn mà chỗ trông mong của chúng con cũng được đầy đủ”.

Hai ngàn đệ tử Thanh Văn, bậc hữu học và vô học cũng đứng dậy lễ Phật, chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan Thế Tôn, tỏ ý cùng một sở niệm với A Nan và La Hầu La.
Phật bảo A Nan: “Đời sau, ngươi sẽ được làm Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai…Ngươi sẽ cúng dường 62 ức Phật, hộ trì tạng pháp, rồi sau được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác giáo hóa 20 ngàn muôn ức hằng hà sa Bồ tát…khiến những Bồ tát ấy thành tựu đạo Bồ đề.
Nói xong, Thế Tôn đọc một bài kệ lập lại nghĩa trên.
Lúc bấy giờ, 8.000 Bồ tát mới phát tâm, đều nghĩ: “Chúng ta chưa nghe các vị Bồ tát lớn
được thọ ký như thế, cớ sao mà các Thanh Văn lại được như vậy”.
Đức Phật biết tâm niệm ấy, bèn bảo rằng: “Nầy các thiện nam tử, ấy vì ở nơi Phật Không Vương, ta và A Nan đã đồng thời phát tâm cầu sự giác ngộ vô thượng. A Nan thường ưa học rộng, còn ta thì siêng cần tinh tấn, cho nên ta đã được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, còn A Nan thì theo bản nguyện, hộ trì pháp ta và trong tương lai, tiếp tục hộ trì
pháp tạng của Chư Phật, để giáo hóa thành tựu chư Bồ tát. Bổn nguyện của ông như thế
nên đặng thọ ký dường ấy”.
Lòng rất vui mừng, A Nan tức thời nhớ lại tạng pháp của vô lượng ngàn muôn ức Phật thuở quá khứ, luôn cả lời nguyện của mình.
Bấy giờ Phật bảo La Hầu La: “Đời sau ngươi sẽ đặng làm Phật hiệu là Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai. Ngươi sẽ cúng dường chư Phật Như Lai đông như vi trần trong mười thế giới và thường vì các đức Phật mà làm trưởng tử như hiện nay”.
Đức Phật Đạo Thất Bảo Hoa đó, cõi nước trang nghiêm, kiếp số thọ mạng, giáo hóa đệ
tử, chánh pháp và tượng pháp cũng đồng như Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như
Lai không khác. Ngươi sẽ làm trưởng tử cho Phật Sơn Hải Huệ, rồi về sau sẽ được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng một bài kệ….
Thấy các bậc hữu học, vô học 2.000 người ý căn nhu nhuyễn, tịch nhiên thanh tịnh, một lòng nhìn Phật, Phật bèn nói với A Nan: “Tất cả những người ấy sẽ cúng dường chư Phật Như Lai đông như vi trần trong 50 thế giới, cung kính hộ trì pháp tạng, rốt sau đồng thời, ở các nước trong mười phương, mỗi mỗi đều được thành Phật, đồng một hiệu là Bảo Tướng Như Lai, sống lâu một kiếp, cõi nước trang nghiêm, số đệ tử Thanh Văn, Bồ tát và thời gian chánh pháp, tượng pháp thảy đều đồng nhau.
Lúc đó, các hàng hữu học, vô học nghe đức Phật thọ ký, vui mùng hớn hở như được rưới cam lồ.
THÂM NGHĨA
Thọ ký cho tất cả những người hữu học và vô học đều được thành Phật là một hình thức khác, nhằm nói lên cái chân lý: “Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật”. Chân lý đó được Bồ tát Thường Bất Khinh pháp hiện từ vô lượng đời kiếp trước được Phật nhắc lại ở phẩm hai mươi sau. Bồ tát Thường Bất Khinh xa xưa nhờ quán triệt chân lý này mà
thành Phật. Phật là hiện thân của chân lý, nói rằng Phật thọ ký, kỳ thật là nói ra cái chân lý hiển nhiên ấy, vậy thôi.
Hữu học, vô học là ai ?
Vô học là những người đã không bị ràng buộc vướng mắc bởi những nghiệp nhơn phiền não trong ba cõi, không còn khiếp sợ và đau khổ bởi vô thường, lão, bệnh trong vòng sanh tử luân hồi, ưu bi khổ não.Họ “xuất ly tam giới” được quả A La Hớn.
Hữu học là những người còn chịu sự chi phối của hạt giống hữu lậu của nghiệp nhơn nhiễm ô của ba cõi. Đó là những người Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm quả.
Hàng hữu học và vô học có đến 2.000 người, Phật thọ ký cho tất cả đều được thành Phật và đồng một hiệu là Bảo Tướng Như Lai đủ mười đức hiệu. Về bình đẳng môn thì như thế. Ai cũng có khả năng thành Phật, có quyền hưởng thụ thành quả giải thoát giác ngộ do công lao tu tập rèn luyện của mình. Nhưng về sai biệt môn thì rõ ràng nhân nào quả
nấy. Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Không có tâm trạng “ngồi chờ sung rơi !…” trong toàn bộ giáo điển của Phật.
Hai nghìn Thanh Văn hữu học, vô học được thọ ký thành Phật sau nầy có điều kiện. Phải cúng dường các Như Lai nhiều như số vi trần trong 50 thế giới nghiền ra. Và phải thọ trì pháp tạng, nghĩa là phải lãnh thọ, hành trì kho tàng chánh pháp. Xã hội quan của Phật giáo cách đây những mấy ngàn năm. Vậy mà tư tưởng Phật giáo và đạo đức của xã hội “không chấp nhận chế độ ngồi mát ăn bát vàng”. Phải ra sức làm việc mới có ngày
quang vinh, gia tư mới sung mãn chứ !
Ở đây có hai vấn đề cần được đặt ra:
Một, là số chư Phật nhiều như số vi trần của 50 thế giới nghiền ra. Tìm đâu cho ra đủ số
Phật như thế để cúng dường ? Ngõ hầu được thành Phật ?
Hai, là vấn đề tuổi thọ của Như Lai. Lấy tuổi thọ của Như Lai nào làm tiêu chuẩn để có thể lượng định thời gian, để hy vọng và ước mơ ngày công viên quả mãn thành Phật của mình? Chắc chắn là bế tắc. Dù thầy toán hay bậc thầy của thầy toán cũng không giải đáp được.
Vấn đề đó phải được hiểu: Như Lai là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm là cái Tâm Như
Lai vốn có của tất cả chúng sanh.
Tâm Như Lai nầy có hai mặt: Thể và Dụng. Thể của nó thì bất biến. Dụng của nó lại tùy duyên. Thể ví như nước. Dụng như bọt bóng sóng mòi…Sóng mòi bọt bóng nghìn sai muôn khác, những điều kiện (duyên) khuấy động hết thì, tất cả là một thể nước lặng trong. Chúng sanh mê muội, thì tùy nghiệp duyên trôi lặn trong sáu nẻo luân hồi, nhưng nếu giác ngộ thì là Như Lai Phật. Đó là lúc “trở về” cái bản vị “bất biến” của mình.
Do vậy, cúng dường chư Phật nhiều đời, cúng dường chư Phật thật đông có nghĩa là ta phải vun bồi “cung cấp, dưỡng nuôi” cái giác tánh tràn đầy mầu nhiệm, tùy duyên bất biến của ta một cách thường xuyên liên tục ở mọi chốn nơi, mọi hoàn cảnh trong đời sống của ta. Khởi một niệm lành là cúng dường một Phật. Thể hiện một hành động của thân, của miệng, của ý có tánh cách lợi lạc chúng sanh, vị tha vô ngã, có chất liệu giải
thoát giác ngộ là cúng dường Phật. Cúng dưnờg như thế là ở đâu cũng có Phật để cho ta cúng dường. Và muốn cúng dường bao nhiêu cũng có đủ số Phật để chứng minh lòng thành kính của ta. Đó là điều kiện để thành Phật đó. Bậc hữu học, vô học trong nhóm
2.000 người làm việc ấy, tất cả Phật tử chúng ta cũng có thể thực hiện sự cúng dường như vậy và kết quả đảm bảo như nhau. Chớ cúng Phật “ngoại” cảnh mà mong đem lại giác ngộ giải thoát “nội” tâm thì làm sao có được việc đó ? Vả lại, theo giáo lý nhà Phật, không có một ông Phật nào ban cho bất cứ ai về cái quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phải học và hành theo nhà bác học, mới có khả năng và có ngày trở thành nhà bác học. Lạy, cung cấp bạc vàng, vật dụng cho nhà bác học để cầu xin được bác học, điều đó không phải việc của người trí làm.
Học và hành là hai yếu tố không thể thiếu của người tu Phật. Học ví như đôi mắt. Hành ví như đôi chân. Chân khỏe có thể đi xa, đi bền nhưng nếu mắt tối thì khó đạt mục tiêu
muốn đến. Ngược lại, mắt sáng thấy suốt rộng xa, nhưng không đi thì cái đích muốn đến không bao giờ thành tựu.
Phật cùng ông A Nan đồng phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở thời Phật Không Vương. Nhưng Phật chú trọng hành (tinh tấn) cho nên Phật đã thành Phật. Còn ông A Nan thiên về học rông đa văn cho nên giờ hãy còn hộ trì pháp Phật và được Phật thọ ký.
Ông A Nan sẽ thành Phật hiệu Sơn Hải Huệ Tự Tại, nói rõ cái đạo lý:
“Gieo hạt gì thu hoạch quả ấy”. Là Phật tử chúng ta hãy chính chắn nghĩ suy !






PHẨM 10
PHÁP SƯ
Để dạy cho tám muôn Đại Sĩ, khi bấy giờ Phật nói với Bồ tát Dược Vương rằng: Trong đại chúng đầy đủ hạng người Chư Thiên, Long Vương, Càn-thát-bà, A-tu-la…Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thanh Văn, Duyên Giác cho đến những người cầu thành Phật đạo. Không để riêng ai, nếu người nào ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một câu, một bài kệ nhẫn đến một niệm tùy hỉ, Như Lai đều thọ ký họ là người sẽ thành tựu quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Phật dạy tiếp: Sau Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một câu một bài kệ cho đến một niệm tùy hỉ, Như Lai cũng thọ ký cho quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Người nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa cung kính cúng dường bằng các thứ trân bảo, hương thơm, trang nghiêm, đẹp đẽ….Dược Vương nên biết các người đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, đã thành tựu đại nguyện, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào nhân gian đấy.
Dược Vương ! Nếu có người hỏi trong thời vị lai, những chúng sanh nào sẽ được thành Phật thì nên chỉ những người vừa kể trên mà nói rằng những người đó sẽ thành Phật. Vì sao ? Nếu có người trai lành, gái tốt nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói dầu là một câu của kinh Diệu Pháp Liên Hoa và dùng các thứ hương hoa, báu vật mà cúng dường,
thì người đó đáng được nhân gian chiêm ngưỡng và cúng dường như cúng dường Phật, vì
đó là hàng Đại Bồ tát đã thành tựu Chánh Giác nhưng vì thương chúng sanh mà nguyện
sanh trên đời để phân biệt giảng nói king Pháp Hoa. Dược Vương nên biết ! Người đó từ bỏ phước báu thanh tịnh để sanh vào đời trược ác, vì chúng sanh truyền bá giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau Như Lai diệt độ, nếu có trai lành, gái tốt có thể vì riêng một người mà nói kinh Pháp Hoa nhẫn đến một câu kinh phải biết người đó là sứ của Như
Lai. Như Lai sai làm việc của Như Lai, còn nói chi người trong đại chúng vì nhiều người giảng nói !
Dược Vương ! Nếu có người bất thiện, dụng ác tâm ở trước Phật chê mắng Phật suốt một kiếp tội còn nhẹ. Nếu có người hung hãn chưởi mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì tội rất nặng.
Dược Vương ! Người đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm mình. Như Lai dùng vai mà vác người đó. Mọi người nên dùng những thứ: hương hoa, kỹ nhạc quý báu nhất trên cõi đời để cúng dường. Vì sao? Bởi vì nghe pháp của người đó nói trong khoảng giây lát bèn được tỏ ngộ chân lý rốt ráo đối với quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Để lập lại nghĩa trên đức Thế Tôn nói một bài kệ.
Rồi đức Phật dạy tiếp: Dược Vương ! Kinh điển của ta nói có thể nhiều vô lượng, đã nói, đang nói và sẽ nói mà trong đó kinh Pháp Hoa khó tin và khó hiểu. Kinh nầy là tạng bí yếu của chư Phật, không thể truyền trao khinh xuất bừa bãi cho nhưng người không đúng đối tượng căn cơ. Đây là thứ kinh chư Phật giữ gìn cẩn mật chưa từng diễn nói. Bởi vì Như Lai còn tại thế nói ra còn nhiều người oán ghét huống chi sau Như Lai diệt độ.
Dược Vương nên biết: Sau Như Lai diệt độ, người nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói cho người khác nghe, Như Lai lấy y mà trùm, người đó được chư Phật trong mười phương hộ niệm. Như Lai lấy tay xoa đầu và người đó cùng với Như Lai ở chung.
Dược Vương ! Ở nơi chốn nào có kinh nầy hoặc giảng nói, hoặc đọc tụng nên xây tháp bằng bảy báu cao rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần tôn trí xá lợi. Bởi vì trong đó có
toàn thân Như Lai rồi. nên dùng các thứ hương hoa, trân bảo, tràng phan….để cúng dường pháp. Người nào thấy tháp lễ bái cúng dường, phải biết những người đó đã gần gũi với
quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bồ tát hành đạo mà chưa thấy chưa nghe được kinh Diệu Pháp Liên Hoa là Bồ tát chưa khéo tu đạo Bồ tát. Những chúng sanh cầu Phật đạo, hoặc thấy, hoặc nghe, nghe rồi tin hiểu thọ trì nên biết người đó đã gần gũi với quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi. Thí như có người khát nước đào giếng ở gò cao, đào thấy đất còn khô thì biết rằng mực nước còn xa . Khi thấy được đất bùn thì biết rằng gần tới nước. Bồ tát cũng vậy, thọ trì, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa phải biết quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
đối với Bồ tát đó gần kề.
Dược Vương ! Nếu Bồ tát nào nghe kinh Pháp Hoa mà kinh nghi sợ sệt đó là Bồ tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh Văn nghe kinh nầy mà kinh nghi sợ sệt, đó là hàng Thanh Văn tăng thượng mạn.
Dược Vương ! Nếu trai lành gái tốt sau Như Lai diệt độ muốn vì hàng tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa thì nên ở trong nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa sen của Như Lai mà thuyết kinh. Nhà Như Lai là tâm từ bi. Y Như Lai là nhẫn nhục, Tòa Như Lai là “Vạn pháp giai không”.
Dược Vương, Phật dù ở thế giới xa xăm nhưng Phật sai hàng hóa nhơn, hàng tứ chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di) đến để nghe pháp và tin nhận thuận theo không chống trái. Nếu nói pháp ở chỗ vắng Như Lai sai Thiên long, Càn Thát Bà…đến nghe pháp. Phật dù ở nước khác nhưng khiến người nước khác luôn luôn được thấy thân ta. Nếu có quên sót câu lối. Như Lai sẽ nhắc cho họ nói kinh được đầy đủ.
Để lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói một bài kệ…..
THÂM NGHĨA
Pháp sư là người học hiểu chánh pháp, sống với chánh pháp, và truyền bá chánh pháp. Thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết đều được công đức vô lượng, đều được gọi Pháp sư.
Pháp Hoa Pháp sư cần có những điều kiện căn bản thể hiện trong đời sống hằng ngày, thì việc lợi mình lợi người mới được viên mãn.
Kinh nói
“Lấy đại từ bi làm nhà
Lấy nhu hòa nhẫn nhục làm áo Lấy pháp không làm tòa ngồi Ở nơi đó là thuyết pháp
Nếu lúc nói kinh nầy Có người ác mắng nhiếc Đá, ngói, dao, gậy hại
Nhớ Phật nên nhận nhục…”
Pháp Hoa Pháp sư có thể có khó khăn như vậy. Bởi vì kinh Pháp Hoa có những đặc điểm dị thường, ở nhiều kinh khác Phật chưa từng dạy đến.
1. Chỉ nghe chừng một bài kệ hoặc một câu kinh Pháp Hoa, Phật cũng thọ ký cho thành Phật.
2. Hoặc thọ trì, hoặc đọc tụng, hoặc biên chép, hoặc giảng nói chừng một bài kệ, Phật nói người đó không phải người thường.
3. Hỏi ai là người sẽ được thành Phật? Hãy chỉ những người có nghe và thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa.
4. Dùng ác tâm chê mắng Phật trọn kiếp, tội còn nhẹ hơn chê mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa.
5. Đọc tụng kinh Pháp Hoa là dùng đức trang nghiêm của Phật mà tự trang nghiêm mình.
6. Kinh đã nói, đang nói và sẽ nói nhiều vô lượng, chỉ có kinh Pháp Hoa khó tin và khó hiểu.
7. Kinh Pháp Hoa là tạng bí yếu không trao dạy cho người không đúng đối tượng.
Phật tại thế kinh Pháp Hoa còn bị nhiều người oán ghét, còn nói chi sau Như Lai diệt độ !
8. Sau Như Lai diệt độ, có ai biên chép,thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa, Như Lai lấy y mà trùm, lấy tay mà xoa đầu người đó.
9. Chỗ nào có kinh Pháp Hoa hoặc có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói nên dựng tháp thất bảo cúng dường. Khỏi để Xá-lợi Phật mà trong đó có toàn kinh Như Lai rồi.
10. Pháp sư nói kinh Pháp Hoa nếu ở chỗ vắng vẻ, Phật sai Thiên long, bát bộ chúng đến nghe pháp. Còn Phật dù ở nước khác nhưng khiến cho vị Pháp sư luôn luôn thấy Phật. Và nếu quên mất câu nghĩa Phật dạy cho nhớ hiểu đầy đủ.
Quả là những sự kiện dị thường. Nếu có người bảo đó là chuyện hoang đường, thần thoại của thời tiền sử xa xưa, dường như chẳng có gì oan ức lắm.Người đệ tử Phật có trách nhiệm nghiên cứu tìm hiểu và dung hóa nó qua “bộ óc” trí tuệ để “nhận thức” lấy tinh
hoa chánh pháp, bỏ di cái bã văn tự ngôn từ vốn mượn để làm thứ “tá dược”. Cái tinh
hoa của kinh Pháp Hoa là thứ dược liệu cực mạnh để trị chứng bệnh “tự khinh” nặng nề của chúng sanh. Chừng nào chúng sanh còn bệnh tự khinh thì Pháp Hoa Pháp sư chưa được nghỉ ngơi. Chừng nào chúng sanh biết mình là Phật, ở chung với Như Lai, thường thấy Như Lai, được Như Lai xoa đầu nhắc nhở….Bấy giờ, Pháp sư nhiệm vụ mới hoàn thành.
Ta hãy tìm hiểu mười sự kiện dị thường được nêu ở trên:
1. Ta thử rút ra một câu kinh xem nào ?
“Tôi không dám khinh các Ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật” (ngã bất cảm khinh ư
nhử đẳng, nhử đẳng giai đương tác Phật).
- Thế nào ? Bạn có bằng lòng chấp nhận “bạn sẽ thành Phật” không ?
- Có
Thế là Phật đã thọ ký cho bạn rồi đó. Nói rằng Phật thọ ký kỳ thật bạn thọ ký cho bạn chứ không phải cần đến Phật. Bởi vì Phật dù có nói thọ ký hay không, địa vị Phật, bạn cũng chẳng mất phần. Vì bạn đã nhận hiểu Phật tánh của bạn thì sớm hay chầy bạn sẽ thành Phật. Nói cách khác là bạn “trở về” với cái ông Phật tánh sẵn có của bạn. Bạn không biết mình là con trưởng giả nên phải đói rách lang thang lưu lạc. Khi bạn nhận ra ông trưởng giả là cha mình, bạn “trở về nhà” thì cái gia tài nguy nga đồ sộ, những kho tàng ngập đầy bảo châu vô giá của ông trưởng giả ấy là của bạn chứ còn của ai nữa ?
2. Những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa, Phật nói những người đó không phải là người thường.
- Tại sao vậy ? – Vì người thường vốn có tánh “tự khinh”. Họ không tin mình có khả năng thành Phật. Càng không thể tin rằng mình là Phật, có Phật chất, có Như Lai ở trong tâm mầu nhiệm. Người thường nghĩ rằng Phật phải là một ông không phải là mình thì mới là Phật. Ông đó ngồi trên chánh điện chùa, đi lửng thửng trên mây hay phải ngồi trên một tòa sen đẹp.
Hiểu Phật như thế thì biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa có nhằm gì ! Ngược lại, người thọ trì, đọc tụng, tu tập kinh Pháp Hoa, tự tin Tri Kiến Phật của mình. Tin mình có tâm Như Lai mầu nhiệm. Rồi quyết chí tu hành, cải tạo vô minh, diệt trừ phiền não, do đó, sớm muộn gì cũng đến ngày thành Phật. Thế không phải sứ giả Như Lai là gì ?
3. Nếu hỏi ai là người sẽ được thành Phật? Hãy chỉ những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa.
Vì sao vậy ?
- Vì người nầy tự tin mình thành Phật. Biết mình có Tri Kiến Phật, biết có Như Lai Viên
Giác Diệu Tâm.
4. Dùng ác tâm chê mắng Phật trọn kiếp tội còn nhẹ hơn chê mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa.
- Sao lạ thế ?
- Ta hãy chín chắn tư duy vấn đề nầy: Giả sử có người xỉ vào mặt ông Cù Đàm, ông
Thích Ca Mâu Ni mà mắng. Thế nào ? Họ đã mắng được Phật chưa?
- Xin đáp rằng: Chưa. Họ mắng như thế không trúng Phật. Họ chỉ mắng được ông Cù Đàm, ông Tất Đạt Đa, ông Thích Ca theo danh ngôn thường xưng gọi. Cái hiện tướng tứ đại duyên khởi là Phật thì cả thế giới thành Phật cả, còn ai để gọi là “chúng sanh” ?
Phật là cái giác tánh linh tri, cái tinh hoa trí tuệ chứa đựng ở trong cái hiện tướng duyên sanh đó, cái đó là Như Lai, là Viên Giác Diệu Tâm, là Tri Kiến Phật. Tất cả cái đó
chứa đựng trong toàn bộ hệ tư tưởng giáo lý Pháp Hoa Kinh. Cho nên chê mắng kinh
Pháp Hoa tức là chê mắng Phật tánh mình, không tin mình có khả năng thành Phật. Người tự mắng, tự xua đuổi, tự khinh Phật mình như vậy tức là tự mình đốt cháy hạt giống thành Phật thì cái quả Phật dứt khoát tuyệt phần. Thế là làm cản trở con đường tiến lên Như Lai Phật, của tất cả chúng sanh, cho nên mang tội rất nặng.
Còn việc chê mắng ông Tất Đạt Đa, ông Thích Ca thì chưa đả động gì được Phật, Như
Lai cả.
Ta ôn lại lời Phật dạy trong Kinh Bát Nhã Kim Cang:
“Nếu dựa vào 32 tướng cho là Như Lai Dựa vào âm thanh thuyết pháp cho là Như Lai Hiểu Như Lai như thế là người tà đạo.
Không hề thấy biết Như Lai đích thực.”
Hiểu Như Lai qua âm thanh sắc tướng không đúng thì mắng Như Lai qua hiển tướng và âm thanh cũng không nhằm được. Cho nên….gọi là tội chỉ là biểu lộ sự ác tâm của chính mình, tội “ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình”, tôi “tự chiêu kỳ hoạ ấy…” chớ Như Lai cũng chẳng bắt tội làm gì. Và thật sự Như Lai cũng chẳng có quyền gì để bắt. Vì Như Lai không phải “đấng thiêng liêng” có quyền thưởng phạt.
“Tùy trần trục cảnh, ngã pháp hoạnh sanh, vô minh cứu cánh vọng thành tham, sân, si, mạn hữu lậu nghiệp”.
“Tuyệt tướng triền căn, tự tha bất cách, giác tánh bản lai cụ túc từ, bi, hỉ, xả vô lượng tâm”.
Đó là câu đối của cụ Tâm Minh Lê Đình Thám, tôi thích quá viết vào đây để tặng chư độc giả cùng thưởng thức. Và nhớ rằng nền giáo lý của Phật giáo đại để là vậy đó. Như Lai có quyền thưởng phạt ai đâu!
5. Thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa là dùng đức trang nghiêm của Phật mà tự
trang nghiêm mình.
- Có thật vậy không ? Tại sao ?
- Có. Tại vì đã chấp nhận, đã tin Phật tánh mình thì mình là Phật, tin tâm Như Lai của mình thì mình là Như Lai. Do đó cái gì Phật có, Như Lai có thì mình có. Người ăn mày thì không có cân đai áo mũ trưởng giả để mặc. Nhưng đã là trưởng giả thì mặc đồ trưởng giả, chứ sao !
6. Kinh điển Phật đã nói, hiện nói và sẽ nói nhiều vô lượng. Nhưng chỉ có kinh Pháp Hoa là khó tin và khó hiểu.
- Tại sao vậy ?
- Tại vì các kinh “phương tiện, bất liễu nghĩa” thì để thích hợp với chúng sanh căn cơ vốn hạ liệt, những tâm hồn yếu đuối thích ỷ lại vào sự ban ân, giáng phúc của một “đấng tha nhân”. Còn kinh Pháp Hoa thì Phật dạy phải tin mình là Phật. Niết bàn không phải ở “cảnh giới” xa xôi nào khác. Phải khai thác cái “tự tánh thanh tịnh Niết bàn”. Phải sử dụng “Niết bàn vô trụ xứ” của Phật. Vì thế chúng sanh khó hiểu và khó tin.
7. Kinh Pháp Hoa phải đúng đối tượng mới nên trao truyền. Lúc Phật tại thế, kinh Pháp
Hoa còn bị nhiều người oán ghét, huống là sau Như Lai diệt độ.
-Tại sao thế ?
- Tại vì chúng sanh có tánh tự khinh, không tin nổi rằng mình có thể thành Phật. Mà kinh Pháp Hoa thì chỉ thẳng cái Tri Kiến Phật sẵn có, khiến chúng sanh tự ngộ nhập, tự thành.
8. Sau Như Lai diệt độ, có ai thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa. Như
Lai lấy y mà trùm, lấy tay mà xoa đầu người đó. Người đó cùng Như Lai ở chung.
- Sự thật có thế ư ? Hình mạo Như Lai thế nào, khi Như Lai làm những điều đó ?
- Như ta đã biết, Như Lai Viên Giác diệu tâm thì ai cũng có. Cái thể bất biến của tâm là Như. Cái dụng tùy duyên của tâm là ờ. Vì vậy, Như Lai là Thể Dụng và Tâm Tánh thanh tịnh bản nhiên vốn có của mọi người.
“Tâm sanh chủng chủng pháp Tùy duyên thủy thượng âu Tánh chân như bất biến
Như thủy, bổn thanh trừng
Bất biến tùy duyên chân thử tánh
Tùy duyên bất biến thị tha tâm Minh tâm, minh liễu âu bào thượng Kiến tánh thâm tri thủy diện trừng”.
Dịch:
“Tâm sanh ra muôn pháp Tùy duyên như bọt nước xao Tánh, chân như bất biến
Như nước vốn lặng trong
Bất biến tùy duyên là tánh ấy
Tùy duyên bất biến chính tâm nầy
Minh tâm ? Nhận rõ lao xao bọt
Kiến tánh ? Nhìn sâu mặt nước bình”.
Ai mà chẳng sống bằng tâm tánh, chẳng ở cùng tâm tánh, chẳng tương quan tác động giữa nhục thân và tâm tánh. Tách rời tâm tánh ra mà còn là một con người thì Phật không có nói bao giờ trong toàn bộ giáo lý Phật. Những đợt sóng “tùy duyên” bao giờ cũng phát xuất, cũng ở trong lòng nước “bất biến”. Nước duyên khởi ra sóng là việc dễ hiểu. Sóng nước không rời là việc tất nhiên. Cũng vậy, mọi người ai cũng có Tâm Tánh Như Lai, khi thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa là lúc “trở về” với Như Lai Tâm làm việc Như Lai Tánh thì được ở chung với Như Lai, được Như Lai rờ đầu vậy. Chỉ lo là mình có nhớ Như Lai, bằng lòng trở về ở chung với Như Lai không ? Hay là bỏ nhà đi hoang để cho Như Lai phải khắc khoải nhớ thương đứa con hoang “cùng tử” của mình.
Người ham thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa, là người “trở về nhà” chớ không phải là “chàng cùng tử” tha phương cầu thực nữa, thì còn lạ gì việc ông trưởng giả choàng cho con mình chiếc áo đẹp, xoa đầu nựng nịu và ôm vào lòng ngủ chung một giấc yên lành mãn nguyện ! Vì bởi cưng con mà !
9. Chỗ nào có kinh hoặc có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa, nên dựng tháp bảy báu cúng dường, nhưng không cần để Xá Lợi Phật, vì trong đó có
toàn thân Như Lai rồi.
- Thân Như Lai là gì ? Không cần Xá lợi mà vẫn có toàn thân Như Lai trong tháp ?
- Sao lại dựng tháp để cúng dường kinh ? Đem phẩm vật để cúng dường cho Phật còn dễ
hiểu. Dựng tháp để cúng dường kinh thì nghĩa lý thế nào ?
Kinh Pháp Hoa là Pháp, thứ pháp tối thượng thừa triển khai Tri Kiến Phật trong tất cả chúng sanh. Thế thì Pháp là Phật vậy. Tháp tức là Pháp. Mà tánh của Pháp tức là tánh của Phật, vì Phật tánh và Pháp tánh không hai. Danh thì khác mà thể thì đồng. Trong Pháp tánh có Phật tánh, trong Phật tánh có Pháp tánh.
Luật Hiển dương Chánh giác nói:
“Phật tánh tại hữu tình
Pháp tánh tại vô tri
Phật pháp bản lai vô nhị tánh
Nhất hỏa năng siêu bách vạn sài”.
Vốn cùng một tánh “chân như” nhưng tùy duyên sanh khởi và tác động vào hữu tình thì tánh chân như được trở thành tên gọi: “Phật Tánh”.
Cũng tánh chân như ấy tùy duyên vận động sanh khởi và tác động vào vô tình thì gọi là Pháp Tánh. Kỳ thực Phật Tánh và Pháp Tánh không hai. Ví như một thứ lửa đem đốt nhiều thứ củi mà tên lửa và độ nóng của lửa có khác: lửa phân bò, rửa rơm, lửa củi, lửa than đước, lửa than đá v.v….
10. Pháp sư nói kinh Pháp Hoa ở chỗ vắng vẻ, Phật sai Thiên long, bát bộ và tứ chúng đến nghe. Phật dù ở chỗ khác nhưng khiến cho Pháp sư luôn luôn thấy Phật. Pháp sư quên, Phật dạy cho nhớ đầy đủ.
- Phải hiểu thế nào về sự kiện có vẻ huyền hoặc nầy ?
- Phải hiểu thế nầy: Tâm Pháp sư đã có sẵn Như Lai, Phật, tâm Pháp sư đã có đủ Tứ thánh, lục phàm, khắp trùm mười pháp giới. Phật và ta cùng ở chung nhau, lỡ quên mất câu lối thì “Thiên Định” để mời Phật đến, ôn cố tri tân, “tư duy” lời Phật, thì Phật, Như Lai Thanh Tịnh Tâm xuất hiện dạy bảo cho mà biết, mà nhớ. Phật Thích Ca cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm trước, cũng thỉnh Phật đến hộ niệm cho, để thuyết kinh Pháp Hoa cũng bằng lối nầy. Còn Thiên long bát bộ thì lúc nào chẳng túc trực ở tâm ta. Cứ “tư duy” trong thiền định, cứ giảng nói kinh Pháp Hoa đi, Thiên Long bát bộ vẫn nghe rõ, chín cõi chúng sanh đều nghe rõ.
Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Phật Dược Su Lưu Ly Quang Như Lai dù ở nước khác, nhưng “Như Lai Viên Giác, Tri Kiến Phật” lúc nào chẳng có ở lòng mình.
Muốn thấy Phật, gặp gỡ Phật chỉ cần dời chúng sanh đi nơi khác thì Phật cùng Pháp sư đối diện, đàm đạo Phật pháp, khó gì !







PHẨM 11
HIỆN BẢO THÁP
Lúc bấy giờ trước Phật, có một ngôi tháp bằng thất bảo cao 500, rộng 250 do tuần từ dưới đất hiện lên rồi trụ lơ lửng giữa hư không. Ngôi tháp cực kỳ tráng lệ tỏa ra mùi thơn “ly cấu chiên đàn” khắp cùng cõi nước. Các hàng Thiên long bát bộ cùng đem các thứ phan lọng, hương hoa, chuỗi ngọc…của cõi trời để cúng dường tôn trọng và ngợi khen.

Bấy giờ trong tháp báu vang ra tiếng khen rằng: Hay lắm! Hay lắm! Đức Thích Ca Mâu
Ni Thế Tôn, có thể dùng tuệ bình đẳng vì đại chúng nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên
Hoa Giáo Bồ tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Đúng vậy ! Lời Thích Ca Mâu Ni nói là chân lý chân thật !
Trước sự kiện hi hữu nầy, đại chúng đều được pháp hỉ, đồng thời cho là chuyện lạ nhưng không ai nói ra, đều cung kính chấp tay đứng qua một bên.
Bồ tát Đại Nhạo Thuyết biết tâm niệm tứ chúng bèn bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn ! Do duyên cớ gì mà có tháp từ đất hiện lên lại từ phía trong có tiếng vang ra như thế ?”
Đức Phật đáp: Trong tháp báu nầy có toàn thân Như Lai. Thời quá khứ cách nay vô lượng lâu xa, tại nước Bảo Tịnh có Phật Đa Bảo, lúc còn hành đạo Bồ tát, đã có lời thệ rằng, nếu được thành Phật thì, sau khi diệt độ, chỗ nào có nói kinh Pháp Hoa, tháp báu của Ngài sẽ hiện ra khen ngợi để chứng minh. Vì vậy, bất luận chỗ nào trong mười phương hễ có nói kinh Pháp Hoa thì tháp báu hiện ra, toàn thân Phật trong tháp nói: “Hay lắm! Hay lắm!
Bồ tát Đại Nhạo Thuyết thay lời đại chúng bạch: “Chúng con muốn thấy thân của đức
Phật Đa Bảo”.
Phật Thích Ca đáp: Theo đại nguyện của Phật Đa Bảo, khi tháp của Ngài hiện ra mà có
đức Phật nào muốn chỉ cho tứ chúng thấy thân của Ngài thì đức Phật ấy phải nhóm lại
một chỗ tất cả “phân thân” của mình, rồi sau đó thân Phật Đa Bảo mới hiện ra. Vậy nay ta sẽ nhóm tất cả “phân thân” của ta hiện đang thuyết pháp ở các cõi nước trong mười phương.
Bấy giờ đức Thích Ca phóng một đạo hào quang từ tướng lông trắng giữa đôi mày, hằng sa cõi nước ở mười phương hiện bày, trong đó vô lượng Bồ tát đang vì chúng sanh nói pháp.
Thấy ánh sáng ấy, chư Phật mười phương đều bảo các Bồ tát: “Chúng ta phải qua thế giới Ta bà, chỗ của đức Phật Thích Ca để cùng cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai”. Chư Phật ấy đều là phân thân của đức Thích Ca.
Lúc bấy giờ, cõi Ta bà biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, có cây báu, vàng ròng trang nghiêm, không có tụ lạc thành ấp, xóm làng, biển cả, sông ngòi, rừng núi.
Mỗi đức Phật có một Bồ tát làm thị giả, các đức “phân thân” qua đến Ta bà, lên ngồi kiết già trên tòa sư tử đặt dưới cội mỗi cây báu, lần lượt như thế khắp tam thiên đại thiên thế giới mà vẫn không đủ chỗ ngồi.
Để dung chứa tất cả các phân thân, đức Thích Ca bèn biến thêm ở tám phương, 200 muôn
ức na do tha nước, nước nào cũng thanh tịnh trang nghiêm.
Lại để có chỗ cho các phân thân Phật sẽ đến, đức Thích Ca dời Trời, người đi nơi khác, biến thêm 200 muôn ức na do tha nước khác, nước nào cũng thanh tịnh, trang nghiêm, bình đẳng như trên.
Chư phân thân Phật trong mười phương tuần tự về đủ nhóm ngồi ở tám phương. Chư
Như Lai ngồi đầy khắp 400 muôn ức na do tha cõi nước.
Khi đâu vào đấy rồi, các phân thân Phật sai thị giả qua cõi Ta bà dâng hoa cúng dường Phật Thích Ca và dạy thị giả bạch rằng: “Như Lai có được ít bệnh, ít khổ, sức khỏe an vui và các Bồ tát Thanh Văn đều được an ổn chăng?”. Sau khi cúng dường hoa, các thị giả bạch với đức Thích Ca là chư phân thân Phật đều muốn mở tháp báu đang lơ lửng trên không. Đức Thích Ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lấy ngón tay mặt mở cửa tháp, làm vang ra một tiếng lớn như tháo khóa một cửa thành.
Tức thì tất cả chúng sanh trong hội đều thấy Đa Bảo Như Lai trong tháp báu ngồi trên tòa sư tử toàn thân nguyên vẹn như người nhập định. Lại nghe Đa Bảo Như Lai nói: “Hay lắm! Hay lắm! Thích Ca Mâu Ni Phật nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay quá. Vì muốn nghe kinh nên ta mới đến đây”. Hàng tứ chúng thấy việc chưa từng có, hân hoan đem các thứ hoa báu tung rải lên cúng dường Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca.
Chia nửa tòa sư tử trong tháp báu, Phật Đa Bảo nói: “Phật Thích Ca ! Xin mời lên ngồi trên tòa nầy”. Tức thời đức Thích Ca vào trong tháp ngồi kiết già trên chỗ được Phật Đa Bảo nhường.
Thấy hai Như Lai cùng ngồi xếp bằng trên tòa sư tử trong tháp, đại chúng thầm nguyện: “Phật ngồi cao quá, cúi mong Như Lai dùng sức thần thông làm cho bọn chúng con đều được gần Như Lai ở trên hư không”.
Đức Thích Ca bèn dùng thần thông tiếp đại chúng lên hư không, rồi nói lớn khắp bảo: “Nay chính là lúc nói kinh Pháp Hoa cho những ai ở Ta bà, có khả năng nói kinh ấy”.
Để diễn lại ý trên, đức Thích Ca nói một bài kệ mà đại ý như sau:
“Đức Phật Đa Bảo diệt độ đã lâu, nay vì muốn nghe kinh Pháp Hoa khó gặp mà hiện ra trong tháp báu, hà huống các người mà chẳng siêng nghe.
Ai nói được kinh nầy là đã thấy ta cùng Phật Đa Bảo và các vị phân thân Phật.
Các thiện nam tử ! Nên suy nghĩ, phải phát nguyện rộng lớn mới nói được kinh Pháp Hoa. Đó là một cái khó hơng tất cả các thứ khó khác. Thật vậy, nói được tất cả các kinh điển khác: dời núi Tu Di, lấy chân hất ba ngàn đại thiên thế giới, dùng sự tướng mà rộng chỉ chân lý, lấy tay nắm bắt hư không, đemcả đại địa để lên móng chân rồi bay lên cõi trời Phạm Thiên, mang cỏ khô vào lửa mà không bị cháy, trì tám muôn bốn ngàn kinh điển rồi vì người đem nói ra, khiến chứng được sáu thần thông, nói pháp làm cho vô
lượng chúng sanh đều đắc quả A La Hán, tất cả những việc làm ấy rất khó, nhưng chưa khó bằng sau khi Phật diệt độ mà nói kinh Diệu Pháp, trong đời ác trược, biên chép nắm giữ được kinh nầy, vì một người mà nói kinh nầy, nghe lãnh và tìm thâm nghĩa trong kinh nầy, tôn trọng và thực hành kinh nầy.
Kinh Diệu Pháp là bậc nhất. Thọ trì, đọc tụng được ắt làm cho chư Phật hoan hỉ. Ai làm được là người dũng mãnh tinh tấn. Đó mới thật là người trì giới, tu khổ hạnh, là người được mau chứng quả Vô thượng Bồ đề.
Đời sau, ai đọc giữ kinh nầy là Phật tử chân chánh, là bậc thuần thiện.
Sau khi Phật diệt độ, ai hiểu được kinh nầy là mắt sáng suốt của trời, người trong thế
gian.
Trong cảnh đầy sợ hãi, ai nói được kinh nầy trong chốc lát, là người đáng cho thiên, nhân cúng dường”.
THÂM NGHĨA
Một ngôi tháp bằng thất bảo, cực kỳ tráng lệ nguy nga. Cao 500, rộng 250 do tuần, từ đất nổi lên trụ trong hư không rồi vang ra lời tán thán rằng: “Phật Thích Ca nói kinh Pháp Hoa rất hay, dạy rõ về chân lý”.
Để cởi mở mối kinh nghi trong lòng đại chúng, đức Phật Thích Ca nói: “Trong tháp báu nầy có toàn thân Như Lai. Đó là Phật Đa Bảo. Phật và tháp báu nầy vốn có từ vô lượng vô số hằng hà sa kiếp…”
Quả là một việc ly kỳ!
Tháp tức là Pháp. Pháp mà đã có từ vô lượng vô số hằng hà sa kiếp mà vẫn trường tồn không hoại. Thế là không phải pháp hữu vi rồi. Ở đây ý Phật muốn giới thiệu và dạy cho chúng sanh biết về Pháp tánh vậy. Chỉ có Pháp tánh mới là pháp bất hoại, chân thường.
Phật Đa Bảo Như Lai “thọ lượng” lâu đời như ngôi bảo tháp, thì không phải là “ứng thân Phật”. Qua sự kiện nầy Phật muốn “chỉ” (Thị Phật Tri Kiến) cho chúng sanh biết về cái Phật tánh bất diệt là như thế đó.
Đất ở thế gian thì nay động mai chuồi, đây bồi kia lở bại hoại vô thường. Vậy đất trường tồn phải là đất bất sanh bất diệt vô thỉ vô chung, tuổi thọ của nó phải đồng với cái “thọ lượng” của Phật tánh, Pháp tánh ở trên đã nói. Có vậy mới dung chứa được cái tháp
(Pháp) và Đa Bảo Như Lai (Phật) bất sanh bất diệt. Vậy đất đó phải là đất Tâm, là Tâm
địa vậy.
Kinh Tâm Địa Quán nói: Trong tam giới lấy tâm làm chủ. Người năng quán tâm chắc chắn giải thoát, người không quán tâm chắc chắn trầm luân. Tâm chúng sanh ví như Đại địa. Ngũ cốc, ngũ quả từ đại địa mà sanh. Cái Tâm cũng thế, nó sanh ra pháp thế và xuất thế: Hữu học, Vô học, Độc giác, Bồ tát cho đến Như Lai. Do đó, Tam giới duy tâm. Tâm được gọi là Đất.
Vậy Pháp, Phật từ đất nổi lên, có nghĩa là Phật tánh, Pháp tánh không ngoài Tâm tánh.
Tâm tánh bao trùm hàm chứa Phật tánh và Pháp tánh. Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Tâm ví như chàng họa sĩ
Vẽ ngũ ấm thế gian Tất cả thế gian nầy Vạn pháp từ đây tạo
Tâm, Phật cũng như thế
Và Phật, chúng sanh cũng vậy
Tâm Phật và chúng sanh
Ba tên mà đồng một bản thể”.
Phật Đa Bảo khi tu nhơn có lời thệ sâu nặng: “Nếu tôi được thành Phật thì sau Phật diệt độ trong mười phương ở đâu có nói kinh Pháp Hoa thì tháp của tôi sẽ hiện đến để nghe và tán thán ! “Hay lắm ! Hay lắm ! Và nếu đức Phật đó muốn giới thiệu thân tôi cho tứ chúng thấy thì phải nhóm hết phân thân Phật của mình đang thuyết pháp trong mười phương lại. Bấy giờ thân tôi mới hiện ra”.
Cái bổn thệ sâu nặng của Phật Đa Bảo nay đã thành hiện thực. Sự kiện ấy có ý nghĩa gì ? Ta có thể hiểu sự kiện nầy qua hai ý:
Một, để chứng minh. Qua sự chứng minh nầy, nói lên ý nghĩa kinh Pháp Hoa là kinh Giáo Bồ tát Pháp Phật sở hộ niệm. Rằng kinh Pháp Hoa, đức Thích Ca đang nói là kinh của chư Phật trong hằng hà sa số kiếp đã nói. Đó là chân lý tối thượng của Phật thừa, không phải chỉ một mình Phật Thích Ca tự ý nói.
Hai, cũng qua sự chứng minh nầy, nhằm “tạo điều kiện” để Phật Thích Ca giới thiệu cho chúng sanh biết rằng: “tuổi thọ” của “pháp thân Phật” về thời gian thì xuyên suốt “ba đời”, về không gian thì khắp giáp “mười phương”.
Đức Phật Thích Ca nhóm phân thân về cõi Ta Bà với phạm vi tam thiên đại thiên thế giới nhưng cõi Ta Bà không đủ chỗ ngồi. Phật phải biến thêm 200 muôn ức na do tha hằng hà
sa cõi nước ở phương Đông, cũng không đủ chỗ ngồi. Lần lượt biến thêm ở phương
Nam, phương Tây và phương Bắc số cõi nước cũng nhiều như vậy mà cũng không đủ chỗ ngồi. Phải tận dụng bốn hướng cạnh, Phật biến mỗi phương cạnh số cõi nước cũng bằng như thế. Bấy giờ mới đủ sức dung chứa số phân thân Phật của đức Thích Ca.
Kinh nói sự kiện nầy không phải để giới thiệu cái tài ảo thuật biến hóa của đức Phật với đệ tử mình. Không. Phật Thích Ca không bao giờ bằng lòng mình là nhà ảo thuật, dù là nhà ảo thuật thiên tài ! Ở đây, cái “thâm nghĩa” của kinh nhằm giới thiệu dạy cho tứ chúng rằng:
Phật thường trụ và Pháp thường trụ
Sự hiện hữu của Tháp và Phật Đa Bảo tồn tại qua vô lượng vô số kiếp nhằm dạy Phật pháp thường trụ về mặt thời gian. Sự kiện Phật Thích Ca biến hóa cõi nước đầy khắp tám phương, cây báu Bồ đề, tòa sư tử (Pháp) và các phân thân Phật nhằm dạy Phật pháp thường trụ về mặt không gian vậy.
Do nghĩa đó, kinh nói: Người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa bất cứ ở điểm không gian nào và khoảng thời gian nào thường được Phật rờ đầu, lấy y mà trùm và được cùng Phật ở chung.
Tháp của Phật Đa Bảo vốn trụ trong hư không, Phật Thích Ca muốn mở tháp cũng phải trụ trong hư không. Tứ chúng muốn ra mắt Phật Đa Bảo phải nhờ sức thần Phật trụ trong hư không mới thấy được.
Người đệ tử Phật phải học lấy bài pháp sâu xa ấy. Đó là điều kiện tiên quyết của người con Phật có ý chí cởi mở những ràng buộc vương vấn khổ đau. Là con người thì còn ăn ở thì phải còn làm. Làm thì làm tất cả, nhưng rồi phải tập luyện xả đi tất cả, đừng trụ
(Thật tế lý địa, bất thọ nhất trần, sanh diệt môn trung bất xả nhất pháp). Bởi Trụ là chấp, là mắc, là dính dáng. Có chấp, có mắc, có dính dáng là có khổ đau, không thấy được Phật.
Phật pháp: vô trụ (Đa Bảo Như Lai và tháp) vốn là cái chân lý vô trụ nên lơ lững trong hư không. Còn Phật Thích Ca sở dĩ được Phật Đă Bảo chia nửa tòa mời ngồi là do có khả năng “trụ hư không” để mở cửa tháp. Tứ chúng trong hội Pháp Hoa muốn thấy được Phật phải nhờ sức thần Phật chứ không phải là sức thần của Phật, nghĩa là nhờ
sức tỉnh thức, giác ngộ chân lý, phủi giũ những vô minh chấp mắc, có khả năng trụ trong hư không rồi mới thấy được Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca.
Trụ hư không có nghĩa là “Vô sở trụ”.
Kinh Kim Cang Bát Nhã nói “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, nhược tâm hữu trụ tức vi phi trụ”. Tâm có chỗ trụ là xa rời chân lý phạm phải sai lầm rồi.
Phật Thích Ca tiêu biểu Thỉ giác mở tháp để ra mắt Phật Đa Bảo tiêu biểu bổn giác, bằng một chuyển biến lớn lao chớ không dễ dàng đơn giản. Yếu tố đầu tiên là khả năng “Trụ hư không”. Kế đó, phải có một nghị lực thần kỳ, một động tác nhẹ nhàng mà có khả năng phá vỡ một vật thể cách ngăn kiên cố, mở cửa tháp mà như tháo chốt cửa của một đại thành.
Sự thật trên đường tu tập của chúng sanh cũng đòi hỏi và nghị lực và khả năng như vậy. Bổn giác và thỉ giác vốn không có cự ly ngăn cách, thế mà vận động thỉ giác quay về trực diện với bổn giác, đòi hỏi phải có điều kiện, phải có nghị lực phi thường mới đạt mục
đích ngang hàng với bổn giác được, mặc dù bổn giác là cái sẵn có, còn thỉ giác chỉ là sự
phản chiếu hồi quang, sự “trở về” chớ không phải là cái chi mới lạ.
Khi đại chúng chiêm ngưỡng hai Như Lai, Phật Thích Ca tuyên bố: “Ai ở cõi Ta bà truyền bá giảng nói kinh Pháp Hoa phải hiểu rõ ý nghĩa của sự kiện nói trên. Như Lai chẳng bao lâu nhập Niết bàn và muốn phó chúc kinh Pháp Hoa cho người thừa kế có khả năng đó”.
Phải hiểu ý nghĩa những sự kiện Như Lai nói, người đó mới là người được Như Lai phó chúc kinh Pháp Hoa, mới là người có khả năng thừa kế truyền bá giảng nói kinh Pháp Hoa.
Bấy giờ Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ có ý nghĩa như sau: Các thiện nam tử
Đều nên suy nghĩ
Đây là việc khó
Phải phát nguyện lớn
Bao nhiêu kinh khác Số như hằng sa Nói hết kinh đó
Chưa đủ làm khó
Bưng núi Tu di Ném để phương khác Vô số cõi Phật
Chưa lấy làm khó
Nếu dùng ngón chân Khều cõi Đại Thiên Ném xa cõi khác Cũng chưa làm khó
Đứng trên hữu đảnh Nói vô lượng kinh Để giáo hóa người Chưa lấy làm khó
Nếu sau Phật diệt
Ở trong đời ác Nói được kinh nầy Đây là rất khó
Giả sử có người Tay nắm hư không Để mà dạo đi
Cũng chưa là khó
Sau ta diệt độ Nếu tự biên chép Hoặc bảo người chép Đây mới là khó
Hoặc đem cõi đất Để trên móng chân Bay lên Phạm thiên Cũng chưa là khó
Tạm đọc kinh nầy Đây thì rất khó Giả sử kiếp thiêu
Mang gánh cỏ khô Vào lửa không cháy Cũng chưa là khó
Sau ta diệt độ Nếu trì kinh nầy Vì một người nói Đây mới là khó
Nếu trì tám muôn Bốn nghìn tạng pháp Mười hai bộ kinh
Vì người diễn nói Khiến các người nghe Được sáu thần thông Dầu được như thế Cũng chưa là khó
Sau ta diệt độ Nghe lãnh kinh nầy Hỏi nghĩa thú kinh Đây là rất khó
Hoặn người nói pháp Làm nghìn muôn ức Vô lượng vô số
Hằng hà chúng sanh Chứng quả La Hán Đủ sáu thần thông Dầu có lợi đó
Cũng chưa là khó
Sau ta diệt độ Nếu phụng trì được Kinh điển nầy đây Thế mới là khó
Ta vì Phật đạo
Ở vô lượng cõi Từ trước đến nay Nói rất nhiều kinh Đối với kinh nầy Đây là bậc nhất

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Trân trọng cám ơn!