BẠCH Y THẦN CHÚ
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT
Trước khi tụng trì Thần-Chú này, người trì Chú phải:
1)Tụng ba lần Chú Tịnh Khẩu Nghiệp Chơn-Ngôn để cho nơi miệng mình được thanh tịnh:
“Tu rị, tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị, ta bà ha”(3 lần)
2)Tụng ba lần Chú Tịnh Thân Nghiệp Chơn-Ngôn để cho thân được thanh tịnh, sạch sẽ:
“Tu đa rị, tu đa rị, tu ma rị, ta bà ha”(3 lần)
3)Tụng ba lần Chú An Thổ-Địa Chơn-Ngôn để cho nơi chỗ đất đai và nhà cửa của mình được thanh tịnh:
“Nam mô tam mãn đa, một đà nẫm, án độ rô, độ rô, địa vĩ, ta bà ha”(3 lần)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN-NGÔN
Án lam, tóa ha (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN-NGÔN
Án ta phạ, bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám (3 lần)
BẠCH Y QUÁN THẾ ÂM ĐẠI SĨ
LINH CẢM THẦN CHÚ
Nam mô đại-từ đại-bi cứu-khổ cứu-nạn quảng-đại linh-cảm Bạch Y Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng. Nam mô cứu-khổ cứu-nạn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Đát chỉ đa, án dà la phật đa, dà la phật đa, dà ha phật đa, la dà phật đa, la dà phật đa, tá ha.
Nam mô Thiên-La Thần, Địa-La Thần, nhân ly nạn, nạn ly thân, nhứt thiết tai ương hóa vi trần.
CHÚ QUÁN-ÂM
Khể thủ Quán-Âm chơn đại-sĩ,
Quán-Âm Thần-Chú phá ngu mông,
Thập bá thiên kiến ngã kim trì,
Trí huệ nguyện hồi quang tự tại.
Án ma ra, án ma ra, án ma ra,
Bà ma ra, bà ma ra, bà ma ra,
Tha nhơn dị hải, dĩ trực di đà,
Dĩ trực đà ra, án ma ra, án ma ra,
Thất rị duệ, ta bà ha.
CỨU KHỔ CHƠN KINH
Nam-mô đại-từ đại-bi quảng-đại linh-cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.(3lần)
Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật.
Phật cáo A-Nan ngôn: “Thử Kinh đại thánh năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai, bá nạn khổ. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn; tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn.”
Nam mô Phật lực oai, nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắc độ, Hồi-Quang Bồ-Tát, Hồi-Thiện Bồ-Tát, A Nậu Đại-Thiên-Vương Chánh-Điện Bồ-Tát, Ma-kheo Ma-kheo, thanh tịnh Tỳ kheo; quán sự đắc tán, tùng sự đắc ưu. Chư Đại Bồ Tát, ngũ bá A-La-Hán cứu độ…(chư chúng sanh…hay là đệ tử…) tất gia ly khổ nạn. Tự ngôn Quán-Thế-Âm, anh lạc bất tu giải, cần đọc bá thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành.
Tức thuyết chơn ngôn viết:
Kim Bà Kim Bà Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đà Ra Ni Đế, Ni Ha Ra Đế, Tỳ Lê Ni Đế, Ma Ha Già Đế, Chơn Lăng Càn Đế, Ta Bà Ha.
KINH CỨU KHỔ
ä Đầu cúi lạy Phổ-Đà Phật-Tổ,
Quán-Thế-Âm cứu độ hồng-trần,
Từ-bi phổ tế lê dân,
Muôn loài nhuần gội oai ân đức Ngài,
Xin độ kẻ hằng ngày chiêm ngưỡng,
Giúp người lành hạnh hưởng phước duyên,
Gió dông sa đọa ghe thuyền,
Tâm thành khẩn đảo, tai liền giảm tan.
Rủi lầm bước vào đàng đạo tặc,
Vướng đao binh thắc-ngặt thảm sầu,
Nhờ ơn bố khắp bốn châu,
Tiếng than xúc động tầm âu độ người.
Hoặc hung bạo bị nơi xiềng tỏa,
Ở hiền lành mắc họa thình-lình,
Lòng thành khẩn với Thánh Minh,
Quan-Âm Bồ-Tát anh-linh cứu nàn.
Gặp yêu quái cản đàng ngăn ngỏ,
Đức Từ-Hàng chẳng bỏ người lành,
Tà ma nghe đến oai danh,
Mắt không dám ngó, khó hành hại thân.
Cảm thử thấp, tâm thần trầm-trệ,
Mang bịnh căn, thân thể xốn-xang,
Hôn mê, chợt tỉnh trí ngoan,
Quán-Âm niệm đặng, tai nàn tán tiêu.
Người vô tự quạnh-hiu sau trước,
Sửa tấc lòng, tác phước khẩn cầu,
Từ-bi linh hiển phép mầu,
Cho trai hiển đạt, gái hầu thuần lương,
Lòng lê thứ nhiều phương tin tưởng,
Quán-Thế-Âm liệu lượng hóa thân,
Xót thương trợ kẻ phàm trần,
Dẫn dìu thuyết pháp, chóng gần Phật Tiên.
Trí ngu muội, đảo nguyền minh-mẫn,
Tánh sân si, cầu khẩn giải oan,
Như lòng tà dục dấy loàn,
Sớm khuya tụng niệm, đặng an tinh thần.
Cơn nước lửa, khó phần trốn tránh,
Lúc hiểm nguy, tâm tánh kinh-hoàng,
Thật lòng khẩn vái khỏi nàn,
Nhành dương cam-lộ rưới tan diệu kỳ.
ä Đệ tử chí tâm qui mạng lễ,
Mong Ơn-Trên phổ tế mười phương,
Chúng sanh thoát chốn tai ương,
Lìa nơi khổ não, lánh đường chông gai.
Nhờ Bồ-Tát Như-Lai lân mẫn,
Độ cho tôi tinh tấn tu hành,
Bền lòng chặc dạ kỉnh thành,
Lâm chung may đặng vãng sanh Thiên-Đàng.
Cầu Cha Mẹ bình an, khương thái,
Thất-Tổ đồng thượng-giái siêu thăng,
Muôn dân phước, lộc, thọ tăng,
Nhà yên nước thạnh người năng làm lành.
Cầu xin thoát khỏi chiến tranh
Năm châu bốn biển thái bình âu ca.
Nam-mô đại-từ đại-bi tầm-thinh cứu-khổ cứu-nạn linh-cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
(niệm câu chót 3 lần, 10 lần, hoặc 108 lần, càng nhiều càng tốt.)
(Long-Thần Hộ-Pháp cho từ đầu bài cho tới câu: “Quán-Thế-Âm liệu lượng hóa thân”. Xích-Tinh-Tử tiếp luôn tới trọn bài.)
MƯỜI HAI CÂU NGUYỆN CỦA
ĐỨC QUÁN-THẾ-ÂM
1.Cúi đầu làm lễ viên-thông,
Quán-Âm Tự-Tại mở lòng độ nhơn,
Từ bi rộng lớn khôn lường,
Lập hoằng thệ nguyện vẹt đường khổ nguy.
2.Một lòng niệm chẳng ngại nghi,
Quán-Âm oai đức phương phi hải hà,
Đường sư Nam-Hải Phổ-Đà,
Chí nguyền độ chúng khỏi sa ngục hình.
3.Ta-bà cảnh giới u-minh,
Quán-Âm thường trụ hiện hình khắp nơi,
Tầm thinh cứu khổ chẳng rời,
Chí nguyền độ chúng về nơi an nhàn.
4.Từ-bi diệt quỷ kinh hoàng,
Quán-Âm oai đức phục hàng chúng ma,
Vớt người nguy hiểm đọa sa,
Chí nguyền cứu khổ vậy mà chẳng than.
5. Tay cầm thanh tịnh bình vàng,
Quán-Âm hóa nước cành dương cam-lồ,
Rưới tâm phiền não lửa lò,
Chí nguyền độ chúng đồng lo tu hành.
6.Từ bi cứu khổ chúng sanh,
Quán-Âm hỷ xả tâm lành huệ thông,
Thường hành bình đẳng đại đồng,
Chí nguyền hóa độ khắp trong muôn loài.
7.Mười phương lục soát đêm ngày,
Quán-Âm tinh tấn chẳng nài công lao,
Độ đồng nhân vật khỏi hao,
Chí nguyền diệt tận khổ đau qua đường.
8.Một lòng vọng tưởng nam phương,
Quán-Âm lễ bái đại thường hôm mai,
Thoát nơi xiềng xích đọa đày,
Chí nguyền độ kẻ nạn tai khỏi nàn.
9.Từ bi tạo chiếc Pháp-thoàn,
Quán-Âm dạo khắp khổ nàn biển khơi,
Độ người lặn hụp chơi vơi,
Chí nguyền tiếp dẫn về nơi Niết-Bàn.
10.Tràng-phang bảo-cái nghiêm trang,
Quán-Âm sắp đặt rõ ràng trước sau,
Rước người niệm Phật chẳng xao,
Chí nguyền tiếp dẫn thẳng vào Tây-phương.
11.Nam mô Vô-Lượng-Thọ Phật tịnh tường,
Quán-Âm phổ hóa chỉ đường quanh minh,
Di-Đà thọ ký vô-sinh,
Chí nguyền độ chúng nêu danh ta-bà.
12.Đoan nghiêm thân hiện sáng lòa,
Quán-Âm diệu tướng thật là vô song,
Lực, hùng, bi, trí tỏ thông,
Mười hai đại nguyện quả công tu hành.
SÁM ĐỨC QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT
Đức Quán-Âm oai thần lộng lẫy,
Khắp thế gian đều trọng danh Ngài,
Chúng-sanh hết thảy ai ai,
Khi nào gặp nạn niệm Ngài liền qua.
Bởi người thế gần xa ngưỡng mộ,
Quán-Thế-Âm cứu khổ độ sanh,
Nếu ai có một niệm lành,
Hễ Ngài nghe tiếng ứng danh tới liền.
Dù bịnh trọng liên miên khổ cực,
Niệm danh Ngài lập tức khỏi ngay,
Bao nhiêu tai nạn hằng ngày,
Chí tâm niệm tới danh Ngài cũng qua.
Vô lượng kiếp ta-bà thế giới,
Ngài giáng sinh xuống cõi dương gian,
Hóa thân công-chúa đoan-trang,
Diệu-Trang-Vương ngự ngai vàng Vua cha.
Còn Diệu-Thanh ấy là chị cả,
Sau cũng tu chứng quả Văn-Thù,
Diệu-Âm chị thứ cũng tu,
Phổ-Hiền chứng quả đền bù công lao.
Trọn một nhà được vào cảnh Phật,
Lòng từ-bi chơn chất đáng ghi,
Tuổi nhỏ chí cả ai bì,
Dốc lòng mộ đạo quyết thì đi tu.
Trọn chín năm chẳng từ lao khổ,
Mong công thành cứu độ chúng-sanh,
Thời kỳ trai giới tu hành,
Tại động Hương-Tích Bắc-thành Việt-Nam.
Một cảnh Tiên mây lam che phủ,
Có cam tuyền, thạch nhũ bao quanh,
Cảnh tốt dành cho người lành,
Kim-đồng, Ngọc-nữ ứng danh theo hầu.
Dưới bệ ngọc chia nhau sớm tối,
Chầu hai bên không lỗi đạo Thầy,
Luôn luôn chân chánh thảo ngay,
Hành theo ý chí của Thầy ban ra.
Quán-Thế-Âm danh là Tự-Tại,
Khắp tam-thiên qua lại dạo chơi,
Từ-bi Ngài muốn độ đời,
Mười hai nguyện lớn thiệt thời cao xa.
Nguyện nào cũng đều là rốt ráo,
Chuyên tâm về chánh-đạo độ tha,
Biển Nam-Hải, núi Phổ-Đà,
Trụ ở nơi ấy cũng là Hương-Sơn.
Trong một phẩm Phổ-Môn thị hiện,
Đức Như-Lai thuật chuyện khen Ngài,
Oai thần linh-hiển không hai,
Tầm thinh cứu khổ chẳng nài công phu.
Nếu có kẻ muốn tu cư-sĩ,
Hay cũng là tùy hỷ muốn chi,
Ngài liền ứng hiện tức thì,
Tới nơi dìu dắt cấp kỳ độ cho.
Hay có kẻ qua đò mắc nạn,
Cùng bao nhiêu tai nạn dọc đường,
Chí thành đốt nén tâm hương,
Vừa niệm danh hiệu tai ương qua liền.
Những chuyện ấy hiển nhiên đều thấy,
Đức Như-Lai truyền dạy chẳng sai,
Chúng ta cớ có quản nài,
Một lòng ngưỡng mộ cầu Ngài độ cho.
Trong khổ hải đò từ vẫn đợi,
Vớt chúng-sanh đưa tới Niết-Bàn,
Chín từng sen báu đài vàng,
Di-Đà thọ ký rõ ràng thảnh thơi.
Nam mô đại-từ đại-bi cứu-khổ cứu-nạn quảng-đại linh-cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
BÁT-NHÃ TÂM-KINH
Khi hành Bát-Nhã Ba-La,
Ngài Quán-Tự-Tại soi ra tột cùng.
Thấy ra năm uẩn đều không,
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua.
Này Xá-Lợi-Tử xét ra,
Không là sắc đó, sắc là không đây.
Sắc cùng không, chẳng khác sai,
Không cùng sắc cũng sánh tày như nhau.
Thọ, tưởng, hành, thức, uẩn nào,
Cũng như sắc uẩn một màu không không.
Này Xá-Lợi-Tử ghi lòng,
Không không tướng ấy đều không tướng hình.
Không tăng giảm, không trược thanh,
Cũng không diệt, cũng không sanh: pháp đồng.
Vậy nên trong cái chơn không,
Vốn không năm uẩn cũng không sáu trần.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân,
Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh.
Từ không giới hạn mắt nhìn,
Đến không ý thức, vô minh cũng đồng.
Hết vô minh cũng vẫn không,
Hết già, hết chết, giả không có gì.
Không khổ, tập, diệt, đạo kia,
Trí huệ chứng đắc cũng là không không.
Sở thành, sở đắc bởi không,
Các vì Bồ-Tát nương tùng tuệ năng.
Tâm không còn chút ngại ngăn,
Nên không còn chút băn khoăn ngại gì.
Đảo điên mộng tưởng xa lìa,
Niết-Bàn mới đến bên kia bến bờ.
Ba đời chư Phật sau xưa,
Đắc thành chánh giác đã nhờ huệ năng.
Trí huệ năng lực vô ngần,
Đại minh vô thượng, đại thần cao siêu.
Trí huệ năng lực có nhiều,
Thật là thần-chú trừ tiêu não phiền.
Trí huệ năng lực vô biên,
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn.
Liền theo lời chú thuyết rằng:
Độ tha giác ngộ khắp trần chúng-sanh
THẬP NGUYỆN
Một nguyền lễ kính Như-Lai.
Hai nguyền xưng tán công dày Thế-Tôn.
Ba nguyền tu phước cúng dường.
Bốn nguyền sám hối nghiệp vương tội trần.
Năm nguyền tùy hỷ công huân.
Sáu nguyền thỉnh chuyển Pháp-luân độ người.
Bảy nguyền thỉnh Phật ở đời.
Tám nguyền học Phật tùy thời phát minh.
Chín nguyền hằng thuận chúng-sinh.
Mười nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi.
PHÚNG KINH
Tụng Kinh công đức tuyệt vời,
Xin đem hồi hướng khắp người gần xa.
Chúng sanh pháp-giới Ta-Bà,
Mau về cõi Phật Di-Đà Tây-Thiên.
NGUYỆN TIÊU
Nguyện tiêu tam chướng não phiền,
Nguyện thành trí huệ vô biên tuyệt vời.
Nguyện bao nghiệp tội xa rời,
Nguyện hành Bồ-Tát đời đời độ tha.
NGUYỆN SANH
Nguyện về Tịnh-Độ nước nhà,
Hoa sen chín phẩm là Cha Mẹ mình,
Hoa khai ngộ Pháp Vô-Sanh,
Bất thối Bồ-Tát bạn lành dựa nương.
TAM QUY-Y
Tự quy-y Phật,
Cầu cho chúng-sanh,
Hiểu rõ đạo lành,
Phát lòng vô thượng.
Tự quy-y Pháp,
Cầu cho chúng-sanh,
Kinh luật hiểu rành,
Trí tuệ như biển.
Tự quy-y Tăng,
Cầu cho chúng-sanh,
Hiệp chúng đồng tình,
Chẳng hề trở ngại.
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức lành,
Hồi hướng cho tất cả,
Chúng con với chúng-sanh,
Đều chứng thành Phật-quả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Trân trọng cám ơn!