-->
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thần Tiên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thần Tiên. Hiển thị tất cả bài đăng

2011-08-21

Lợi Thị Tiên Quan

Photobucket

Lợi Thị, trong sách cổ còn gọi là Áp Tuế Tiền 押岁钱, thường thờ một vị thần là Lợi Thị Tiên Quan 利市仙官 tên là Diêu Thiếu Tư 姚少司, đồ đệ của Thần Tài Triệu Công Minh 财神赵公明, một trong Ngũ Lộ Tài Thần 五路财神, được coi là một vị Phúc Thần, đem Phú Quý, may mắn đến cho mọi người nhân ngày đầu năm.

Trong tín ngưỡng về Thần tài của dân gian, thì “Lợi Thị Tài Thần” ít được lưu ý và không có nguồn gốc hay truyền thuyết nào đáng ghi. Nói về phương diện nầy, chúng ta cầ lưu ý nhiều đến các vị “Chính Tài Thần” hơn vì có nguồn gốc và lịch sử hay truyền thuyết, còn “Lợi Thị Tiên Quan” thì xếp vào “Thiên Tài Thần” thì không nhất định phải có lịch sử. Xét cho cùng, thuật ngữ “lợi thị” (Q Đ: lì-xì) là câu cửa miệng của mọi người, nhất là giới thương buôn đời Tống, Nguyên. Từ đó, biến thể dần thành ra “Lợi Thị Tài Thần” vậy thôi !

Từ “Tiên Quan” là thuật ngữ của Đạo Giáo, còn từ “Lợi Thị” có lẽ xuất phát từ câu ngạn ngữ “Lợi thị tam bội” (chợ lời gấp ba) , rút lại là lợi thị mà thôi. Trải qua nhiều thời đại,dần dần dân gian đã nhân cách hóa và thần thánh hóa một “câu nói” thành ra nhân vật “lão bà” thành ra “Lợi Thế Bà Quan” (quan bà làm lợi cho đời). Đến đời Minh, tôn xưng “Lợi Thị Tiên Quan” thành “Diêu Nhiễu Ích” (tên người, họ Diêu là con cháu vua Thuấn) hay “Diêu Thiểu Tư”. Gần đây, thì được dân gian tưởng tượng vẽ ra hình để thờ. Đó là sự chuyển hóa tự nhiên của tính sùng bái “ngẫu tượng” lâu đời của người Trung Hoa vậy.

Ngũ Lộ Tài Thần

Trong dân gian có nhiều thuyết nói về Ngũ Lộ Tài Thần. Một thuyết nói Ngài tên là Hà Ngũ Lộ, một thuyết nói rằng Ngài là con thứ năm của Dã Vương triều đại nhà Lương hay Trần. Khi chết được phong làm “Ngũ Hiển Thần”, bị người đời đọc trại ra thành Ngũ Lộ Thần. Một thuyết khác thì nói, Ngũ Lộ Thần không phải là tên của một người, mà là tên hiệu chung cho cả năm người . Nói về năm người thì cũng có hai giả thuyết:

-một cho rằng tên của năm người là “Đỗ, Thượng, Hoa, Trần, Tôn”, là năm người sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm.Ngày nọ năm người tình cờ gặp nhau ở Hàng Châu, rồi đốt hương kết làm anh em bạn bè nhau. Năm người nầy hợp tác làm ăn với nhau, đến Miếu Quan Âm cúng bái khẩn nguyện phù hộ, được đức Quan Âm giúp cho công việc làm ăn thuận lợi, nên về sau năm người xây dựng một ngôi Chùa Quan Âm đồ sộ để tạ ơn. Sau khi chết, năm người nầy được tôn làm “Ngũ Lộ Tài Thần”

-một thuyết khác nói rằng, tên của năm người là “Đường, Lưu, Trương, Cát, Lý”, lúc sinh tiền là năm tên “giang dương đại đạo” (cướp ở sông biển), nhưng lại đem số tiền cướp được phân phát hết cho dân nghèo các nơi. Sau khi chết, được nhân dân xây miếu thờ, xưng tụng năm người là “Ngũ Lộ Tài Thần” hay “Ngũ Hiển Tài Thần”.

*Có thuyết thì lấy Triệu Công Minh và bốn vị thủ hạ tôn làm “Ngũ Lộ Tài Thần” như trên đã nói.

*Trong dân gian lại tôn Ngũ Lộ Tài Thần là các vị:- Thổ Địa Công, Mã Vương Gia (hay Ngưu Vương Gia), Tiên Cô, Tài Thần và Định Phước Tao Quân.

PhotobucketPhotobucket

Photobucket
Photobucket

Phạm Lãi

Trong Đông Chu Liệt Quốc Chí 》:Phạm Lãi đã giúp cho Việt Vương Câu Tiễn trung hưng phục quốc , nhưng ông cũng biết rằng, Câu Tiễn là người chỉ có thể “cùng chung hoạn nạn” chứ không thể “cùng chung phú quí”, nên gấp rút xin lui về dân. Sau đó, sang nước Tề để ẩn cư.

Phạm Lãi khisang nước tề, đã cải tên lại là “Chi Di Tử Bì”, cùng với con siêng năng làm việc nhiều năm trở thành người có tài sản thiên vạn. Vua tề vốn ngưỡng mộ ông, cho mời ông về triều làm Tể Tướng, nhưng ông quyết từ chối. Vì thế, ông lại phải bỏ hết tài sản tiền bạc mà chạy trốn nơi khác. Ông nhận thấy nơi mới đến có đường giao thông thuận lợi cho việc mua bán, nên kinh doanh thương nghiệp. Chẳng bao lâu trở thành một “đại phú gia” xưng là Đào Chu Công.

Phạm Lãi có khả năng làm ra tiền dễ dàng, nhưng lại không quá coi trọng đồng tiền, dám từ bỏ tài sản một cách không tiếc nuối. Như vậy, đối với ông thì vinh hoa phú quí chẳng phải là cứu cánh cho cuộc sống. Quan niệm nầy rất phù hợp với truyền thống “trọng nghĩa khinh tài” của người Trung Quốc. Do đó, Phạm Lãi được dân gian tôn xưng là “Văn Tài Thần”.


Tích khác
Phạm Lãi là một chính trị gia thời Xuân thu chiến quốc. Phạm Lãi tự là Thiếu Bá - 少伯. Phạm Lãi từ nhỏ đã có thiên chất thông minh. Sau được Việt Vương Câu Tiễn - 越王勾踐 bái làm sĩ đại phu. Khi Việt quốc chiến bại, Phạm Lãi cùng đi khổ sai với Câu Tiễn ở Ngô quốc rồi lập mưu mà giúp Câu Tiễn về nước, chiêu tập binh lính lương thực đánh bại Ngô quốc. Việc lớn thành, Phạm Lãi nhận thấy Câu Tiễn là người nhỏ nhen không thể cùng chung phú quý nên đã từ quan, thoái ẩn, cưỡi thuyền nhỏ mà ngao du đông hải, đi đến Tề quốc - 齊國.
Sau lại bỏ Tề quốc mà đến đất Đào sinh sống. Khi giàu có, ông phân hai gia sản chia cho dân chúng, dân chúng ngợi khen và gọi ông là Đào Chu Công -陶朱公 và bái ông làm Tài thần. Phạm Lãi một thân lập nghiệp, tích góp nên vạn lượng, kinh doanh thiện lương mà sử dụng tiền tài cũng vì việc thiện ích nên dân thương buôn rất kính trọng bái làm Văn Tài thần.

Tỷ Can

Trong Phong Thần Diễn Nghĩa 》:Tỷ Can là một trong ba vị trung thần hạng nhất của vua Trụ, bị Đát Kỷ mưu hại chết bằng cách bảo rằng phải cần “trái tim” người để làm thuốc cho vua. Khi Khương Tử Nha phong thần, nhận ra là ông Tỷ can không có trái tim tức là “vô tâm”. Mà đã vô tâm thì không có chuyện “tư tâm” (tâm riêng tư) cho mình, nên phong thêm chức vụ “Tài Thần”.

Trong dân gian lại có thêm truyền thuyết là vì xưa kia con cọp đen của Triệu Công Minh cỡi , đã dùng móng của nó moi bụng Tỷ Can để tìm trái tim, nên bụng của ông biến thành màu đen, cho nên Tỷ can không tâm chẳng thể làm việc bình thường, lúc có lúc không, khiến cho việc ban phát tiền bạc của ông cho con người không đều đặn, sanh ra người giàu, có người nghèo là vậy !



Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

遯狂君子各全身
八百諸侯會孟津
七竅有心安避剖
一丘遺殖盡成人
目中所觸能無淚
地下同遊可有人
慚愧貪生魏田舍
忠良胡亂彊相分

Độn cuồng[1] quân tử các toàn thân
Bát bách chư hầu hội Mạnh Tân[2]
Thất khiếu[3] hữu tâm an tỵ phẫu
Nhất khâu di thực tẫn thành nhân[4]
Mục trung sở xúc năng vô lệ
Địa hạ đồng du khả hữu nhân
Tàm quý tham sinh Ngụy điền xá[5]
Trung lương[6] hồ loạn cưỡng tương phân

Bậc quân tử phải đi trốn hoặc giả điên để khỏi bị giết
Tám trăm chư hầu họp nhau ở Mạnh Tân (để đánh vua Trụ tàn ác)
Có trái tim bảy lỗ thì sao không khỏi bị mổ?
(Này đây) một gò cây cỏ (của người chịu chết) thành bậc nhân
Trông tận mắt, có thể nào không rơi nước mắt
Ở dưới đất có người có thể làm bạn đồng tâm
Đáng xấu hổ họ Ngụy quê mùa tham sống
Dám hồ đồ gượng ép chia hai trung với lương

Triệu Công Minh

http://enbac10.vcmedia.vn/thumb_w/180/up_new/2010/03/08/item/128/128238/20100308164449_dsc02192.jpg

Còn gọi là “Trung Lộ Tài Thần”, ngày vía là rằm tháng ba âm lịch (ngày sinh)

Trong “Phong Thần Diễn Nghĩa” thuật lại, thì Khương Tử Nha không có phong cho Triệu Công Minh là Tài Thần mà phong làm Kim Long Như Ý Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân Quân , là Nguyên Soái , thống lãnh bốn vị tiênChiêu Bảo Thiên Tôn Tiêu Thăng 」、「Nạp Trân Thiên Tôn Tấn Bảo 」、「Chiêu Tài Sứ Giả Đặng Cửu Công 」、「Lợi Thị Tiên Quan Diêu Thiểu Tư

Những vị nầy có chức năng ban phước lộc và điều lành tốt cho những người trong giới buôn bán, vì có những tên “đẹp” như:- Chiêu Bảo, Nạp Trân, Chiêu Tài, Lợi Thị, là những thuật ngữ rất tốt đẹp cho công việc mua bán kinh doanh. Mà những vị nầy lại là thuộc hạ của Triệu Công Minh, tất nhiên ông phải được tôn xưng là đúng thôi !

Đến đời nhà Minh, ông Hứa Trọng Lâm có viết quyển sách , trong đó chính thức nêu lên Triệu Công Minh là Tài Thần của dân Trung Quốc. Điều nầy được mọi người chấp nhận, vì những tên của bốn vị thuộc hạ của ông rất phù hợp với lòng mong mỏi của mọi người :- “chiêu bảo (gọi vật quí), nạp trân (thu vật báu), chiêu tài (gọi tiền về), lợi thị (buôn bán có lời). Từ đó, dân gian tôn bốn vị tiên nầy cộng với thủ lãnh Triệu Công Minh thành năm người, gọi là “Ngũ Lộ tài Thần”.

Thêm nữa, dân gian cho rằng Triệu Công Minh bị bắn trúng con mắt và thủng tim mà chết, nên gọi là “Tài Thần Gia Vô Nhãn Vô Tâm” (Ông thần tài không có tim không có mắt, tức là người mù), vì thế mới có chuyện thực tế là , có người tốt mà không giàu, người giàu chưa hẳn đều tốt v.v..Lý luận nầy xem ra cũng có chút ít cơ sở vậy !

*Trong sách “Sưu Thần Ký”, Triệu Công Minh thuộc về Ôn Thần (thần gây bệnh ôn dịch), là một trong ba vị thiên thần xuống trần gian để coi sóc về tính mạng con người, nên tôn xưng là “Triệu Huyền Đàn”, “Triệu Nguyên Soái” hay”Triệu Tướng Quân”, chưởng quản “khí” ngũ phương của các vị thần.

Danh hiệu của Ngài có rất nhiều, như là :- :「Cao Thượng Thần Tí Ngọc Phủ Đại Đô Đốc Ngũ Phương Tuần Sát Sứ Cửu Châu Xã Lệnh Đô Hạ Đề Điểm Trực Điện Đại Tương Quân Chủ Linh Lôi Đình Phó Nguyên Soái Bắc Cực Thị Ngự Sử Tam Giới Đại Đô Đốc ứng Nguyên Chiêu Liệt Hầu Học Sĩ Định Mệnh Thiết Trướng Sứ Nhị Thập Bát Tú Tổng Quản Thượng Thanh Chính Nhất Chi Đàn Phi Hổ Kim Luân Chấp Pháp Triệu Nguyên Soái .

*Ngoài ra, Triệu Công Minh còn được gọi là “Hàn Đan Gia” là một “Thần Lưu Manh” vì lúc còn trẻ, ông đã gây tạo không biết bao nhiêu là tội lỗi, làm những việc sái quấy không chừa gì cả. Về sau, ông hối cải ăn năn , muốn chuộc lại tội lỗi đã gây ra lâu nay. Ông cởi hết quần áo, tình nguyện vào đêm Nguyên Tiêu, để cho nhân dân đốt pháo trên thân ông tan nát, với tâm nguyện cầu mong cho làng xóm tránh khỏi những tai họa trong tương lai. Ông chịu chết như thế nên dân chúng cảm phục, tôn thờ ông làm thần.

Chân Vũ Đại Đế


Click vào hình để xem rõ





Văn Xương Đế Quân

Wenchang.jpg

Văn Xương Đế Quân (文昌帝君) hay Văn Xương Tinh (文昌星 ) là vị thần được dân gian lẫn Đạo giáo tôn sùng là thần chủ quản công danh phúc lộc của sĩ nhân.

Văn Xương là tên vì sao, cũng gọi là sao Văn Khúc (Văn Khúc tinh) hoặc sao Văn (Văn tinh). Người Trung Quốc thời xưa cho rằng đây là tinh tú nắm giữ công danh và văn vận của thế nhân.

Đạo giáo đã sớm có tín ngưỡng Văn Xương, trong Lão Quân Âm Tụng Giới Kinh chép: "Đương giản trạch chủng dân, lục danh Văn Xương cung trung." (Phụ trách tuyển chọn phẩm hạng dân chúng, ghi danh vào cung Văn Xương).

Đến đời Nguyên (1279–1368) và đời Minh (1368–1644), các đạo sĩ lợi dụng tín ngưỡng dân gian về Văn Xương Đế Quân mà viết ra "Thanh Hà Nội Truyện" và "Tử Đồng Đế Quân Hóa Thư"... kể lại những thần tích của Văn Xương Đế Quân.

Các sách viết rằng:

Văn Xương Đế Quân vốn sinh đầu đời Chu, đã trải 73 kiếp hoá thân, từng là sĩ đại phu, cuối đời Tây Tấn ngài giáng sinh nơi đất Thục, tên là Á họ là Trương, tự là Bái Phu, được lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế cho chưởng quản Văn Xương phủ và lộc tịch (sổ sách về quan lộc) của nhân gian.

Đạo Tạng Tập Yếu thu thập quyển Văn Xương Đế Quân Bản Truyện viết vào những năm Sùng Đức (1636–1648) đời Thanh (1644–1911). Trong đó ghi rằng:

"Văn Xương Đế Quân họ là Trương, húy là Thiện Huân, có những thần tích linh dị, phàm nhương tai khử họa đảo vũ cầu tự, hễ có thành tâm tất có ứng nghiệm, có thể trấn phục yêu ma tảo trừ dịch bệnh. Ngài được gọi là Văn Chương Tư Mệnh vì các giới quý tiện văn vũ y bốc sĩ nông công thương hễ có lòng mong cầu công danh đều trông cậy vào ngài. Ngài cư ngụ nơi cung Văn Xương nơi chòm sao Tử Vi, thường giáng cơ viết kinh, hiển mộng báo tin, phân thân ứng hóa, cứu độ nhân sinh."

Trong Tử Đồng Đế Quân Hóa Thư (do Đàm Tiễu viết đầu thế kỷ X) tóm lược 17 kiếp của Văn Xương Đế Quân, nhưng nội dung hết sức hoang đường. Có lẽ sáng tác này của đạo sĩ Đàm Tiễu muốn củng cố và chuyển tín ngưỡng Văn Xương Đế Quân từ một tín ngưỡng dân gian sang tín ngưỡng của Đạo giáo.


Tích Khác

Còn gọi là “Tử Đồng Đế Quân”, là thần Bắc Đẩu Tinh, một trong những tín ngưỡng về sao của người xưa.

* Sách “Lại ký—Thiên quan thư” chép:- “Sao Khôi phò cho sáu sao Văn Xương, một gọi là Thượng tướng, hai gọi là Thứ tướng, ba gọi là Quí tướng, bốn gọi là Tư mệnh, năm gọi là Tư trung, sáu gọi là Tư lộc”.

*Sách Lại Ký Sách / Tác ẩn chú giải Bắc Đẩu Thất Tinh là Văn Xương Cung hay Quí Tướng Tinh coi về văn tự , Mệnh Tinh chưởng quản về tuổi thọ con người , Trung Tinh chưởng quản tai hoạ của con người , Tư Lộc Tinh chưởng quản về tài bạch của con người . Do đó, “Văn Xương Đế Quân” không những chưởng quản về văn học mà còn đảm nhiệm chức năng “Tài Thần” nữa. Đến đời Đường thì chức năng về văn học đã chuyển hoàn toàn cho “Khôi Tinh Gia” (sao Khuê). Văn Xương Đế Quân thành ra đảm trách chức vụ “Văn Tài Thần”.


Tích Khác

Văn Xương Đế Quân:

  • 文昌帝君

"Văn Xương Đế Quân được dân gian lẫn Đạo giáo tôn sùng là Thần chủ quản công danh phúc lộc của sĩ nhân.

Văn Xương là tên vì sao, cũng gọi là sao Văn Khúc (Văn Khúc tinh hoặc Văn tinh). Người Trung quốc xưa cho rằng đây là tinh tú nắm giữ công danh và văn vận của thế nhân.

Sự kiện Văn Xương Đế Quân được dân gian và Đạo giáo phụng thờ có liên quan đến thần Tử Đồng Trương Á Tử.

Đời Đông Tấn (317-420), năm Ninh Khang thứ 2 (374) triều vua Hiếu Vũ Đế [Tư Mã Diệu], một người nước Thục tên là Trương Dục tự xưng là Thục Vương, khởi nghĩa chống Phù Kiên và hy sinh. Dân chúng quận Tử Đồng (Tứ Xuyên) lập miếu thờ (gọi là Trương Dục từ) tại núi Thất Khúc, tôn Ngài là Lôi Trạch Long Thần.

Trên núi Thất Khúc cũng có một miếu thờ thần Tử Đồng Trương Á Tử. Vì hai miếu gần nhau, người đời sau mới gọi chung hai thần là Trương Á Tử hoặc Trương Á Tử Sĩ Tấn chiến một (Trương Á Tử, quan đời Tấn, chết trong chiến tranh). Sự việc Trương Dục có chép trong Tấn Thư.

Thần Trương Á Tử (cũng gọi Trương Ác Tử) được ghi chép trong Hoa Dương Quốc Chí, quyển 2: "Tử Đồng huyện, quận trị, hữu Thiện Bản tự, nhất danh Ác Tử" (huyện Tử Đồng là một quận trị có miếu Thiện Bản, một tên khác là Ác Tử).

Trong dân gian thường truyền nhau sự hiển linh thần dị của thần Tử Đồng Trương Á Tử.

Thái Bình Hoàn Vũ Ký quyển 84 mục Kiếm Châu Tử Đồng huyện có trích dẫn Quận Quốc Chí rằng: "Ác Tử tích chí Trường An kiến Diêu Trường, vị viết: Kiếp hậu cửu niên, quân đương nhập Thục, nhược chí Tử Đồng Thất Khúc sơn, hạnh đương kiến tầm." (Xưa Ác Tử đến Trường An gặp Diêu Trường bảo rằng: 9 năm sau, người phải vào Thục, nếu đến núi Thất Khúc huyện Tử Đồng, may mắn thì tìm gặp ta).

Thập Lục Quốc Xuân Thu Tập Bổ - Hậu Tần Lục ghi rằng: "Tiền Tần Kiến Nguyên thập nhị niên (376), Diêu Trường chí Tử Đồng Thất Khúc sơn, kiến nhất thần nhân vị chi viết: Quân tảo hoàn Tần, Tần vô chủ, kỳ tại quân hồ? Trường thỉnh kỳ tính thị, viết: Trương Ác Tử dã. Ngôn cật bất kiến. Chí cứ Tần xưng đế, tức kỳ địa lập Trương Tướng công miếu tự chi" (Năm Kiến Nguyên thứ 12 [tiền Tần, 376], Diêu Trường đến núi Thất Khúc ở huyện Tử Đồng, gặp một thần nhân bảo rằng: Ngươi hãy sớm quay về Tần, Tần không có chủ, chẳng phải chủ ở nơi ngươi sao? Trường xin hỏi danh tánh, người đó đáp: Trương Ác Tử đây. Nói xong thì chẳng thấy người đó. Đến lúc Tần xưng đế, nơi nầy lập miếu Trương tướng công mà thờ).

Khi loạn An Lộc Sơn nổi lên, Đường Huyền Tông lánh nạn chạy vào đất Thục, trên đường đi ngang núi Thất Khúc, nghĩ đến Trương Á Tử anh liệt kháng Tiền Tần, bèn dừng chân vái lạy. Tương truyền khi tá túc núi Thất Khúc, Huyền Tông mộng thấy Trương Á Tử hiển linh mách rằng, không bao lâu nữa, Huyền Tông sẽ trở thành Thái Thượng Hoàng. Hiện nay trên núi Thất Khúc còn dấu tích "Ứng mộng tiên đài" của Đường Huyền Tông.

Năm Quảng Minh thứ 2 đời Đường, Hy Tông lánh loạn Hoàng Sào vào Thục, đi ngang núi Thất Khúc cũng vào vái lạy, truy phong Trương Á Tử là Tế Thuận Vương và cởi bội kiếm tặng cho Thần.

Thần Tử Đồng Trương Á Tử vì được các vua Đường sùng bái, thanh danh lan truyền xa, từ một vị Thần địa phương trở thành một đại thần khắp Trung quốc.

Năm Hàm Bình thứ 3 (1000) triều vua Tống Chân Tông (trị vì 998-1023) (Bắc Tống), Đô Ngu Hầu ở Ích Châu là Vương Quân nổi loạn, thần Tử Đồng linh hiển trợ giúp vua diệt quân phiến loạn. Tống Chân Tông bèn sắc phong Trương Á Tử là Anh Hiển Vũ Liệt Vương, đồng thời cho tu bổ miếu thờ.

Đời Nam Tống, năm Thiệu Hưng thứ 10 (1140), vua Tống Cao Tông (trị vì 1127-1162) cho đại tu Tử Đồng Thần miếu và sắc phong miếu thờ là Linh Ứng Từ.

Vua Tống Quang Tông (trị vì 1190-1194) truy phong Trương Á Tử là Trung Văn Nhân Vũ Hiếu Đức Thánh Liệt Vương. Tống Lý Tông (trị vì 1225-1264) truy phong Trương Á Tử là Thần Văn Thánh Võ Hiếu Đức Trung Nhơn Vương.

Đời Nguyên, năm Diên Hựu thứ 3 (1316), vua Nhân Tông (trị vì 1312-1320) sắc phong Trương Á Tử là Phụ Nguyên Khai Hóa Văn Xương Tư Lộc Hoằng Nhơn Đế Quân và khâm định là Trung Quốc Hiếu Gia Ích Dân Chính Trực Thần.

Kể từ đó, thần Tử Đồng và sao Văn Xương được hợp nhất thành một danh xưng là Văn Xương Đế Quân.

Từ đời Tống rất thịnh hành vô số câu chuyện linh dị kể lại thần Tử Đồng hiển linh phù hộ các sĩ tử thi đậu làm quan, cho nên việc phụng thờ Ngài càng thêm thịnh.

Đời Nam Tống, Ngô Tự Mục trong quyển Mộng Lương Lục thứ 14 chép rằng Tử Đồng Đế Quân tại đạo quán Thừa Thiên ở Ngô Sơn là thần nước Thục, chuyên nắm giữ lộc tịch (sổ sách về quan lộc) của con người, nói chung các sĩ tử bốn phương đi thi cầu danh đều xin Ngài ban phúc. Ngài được phong là Huệ Văn Trung Vũ Hiếu Đức Nhân Thánh Vương (Tử Đồng Đế Quân tại Ngô Sơn Thừa Thiên quán, thử Thục trung thần, chuyên chưởng lộc tịch, phàm tứ phương sĩ tử cầu danh phó tuyển giả tất đảo chi. Phong vương tước viết Huệ Văn Trung Vũ Hiếu Đức Nhân Thánh Vương).

Cuối đời Nam Tống, các châu và phủ đều lập nhiều miếu thờ Tử Đồng Đế Quân. Như vậy, những tượng thờ Văn Xương Đế Quân trong các chùa miếu và đạo quán ngày nay tức là tượng Tử Đồng Đế Quân.

Đạo giáo đã sớm có tín ngưỡng Văn Xương, trong Lão Quân Âm Tụng Giới Kinh chép: Đương giản trạch chủng dân, lục danh Văn Xương cung trung. (Phụ trách tuyển chọn phẩm hạng dân chúng, ghi danh vào cung Văn Xương).

Đến đời Nguyên (1279-1368) và đời Minh (1368-1644) các đạo sĩ lợi dụng tín ngưỡng dân gian về Văn Xương Đế Quân mà viết ra "Thanh Hà Nội Truyện""Tử Đồng Đế Quân Hóa Thư" kể lại những thần tích của Văn Xương Đế Quân.

Sách viết rằng:

"Văn Xương Đế Quân vốn sanh đầu đời Chu (Châu), đã trải 73 kiếp hóa thân, từng là sĩ đại phu. Cuối đời Tây Tấn, Ngài giáng sanh nơi đất Thục tên là Á, họ là Trương, tự là Bái Phu, được lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế cho chưởng quản Văn Xương Phủ và lộc tịch (sổ sách về quan lộc) của nhân gian."

Đạo Tạng Tập Yếu thu thập quyển Văn Xương Đế Quân Bản Truyện viết vào những năm Sùng Đức (1638-1648) đời Thanh, trong đó ghi rằng:

"Văn Xương Đế Quân họ là Trương, húy là Thiện Huân, có những thần tích linh dị, phàm nhương tai khử họa, đảo vũ, cầu tự, hễ có thành tâm tất có ứng nghiệm, có thể trấn phục yêu ma, tảo trừ dịch bệnh. Ngài được gọi là Văn Chương Tư Mệnh, vì các giới quí tiện văn võ y bốc sĩ nông công thương, hễ có lòng mong cầu công danh đều trông cậy vào Ngài. Ngài cư ngụ nơi cung Văn Xương, nơi chòm sao Tử Vi, thường giáng cơ viết kinh, hiển mộng báo tin, phân thân ứng hóa, cứu độ nhân sanh."

Trong Tử Đồng Đế Quân Hóa Thư (do Đàm Tiễu viết đầu thế kỷ thứ 10) tóm lược 17 kiếp của Văn Xương Đế Quân nhưng nội dung hết sức hoang đường. Có lẽ sáng tác nầy của đạo sĩ Đàm Tiễu muốn củng cố và chuyển tín ngưỡng Văn Xương Đế Quân từ một tín ngưỡng dân gian sang tín ngưỡng của Đạo giáo.

Trong Đạo Tạng và Đạo Tạng Tập Yếu thu thập rất nhiều kinh sách do Văn Xương Đế Quân giáng cơ bút, trong đó thịnh hành nhứt kể từ đời Tống và đời Nguyên là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn. Tác phẩm nầy tuyên xưng: Văn Xương Đế Quân cứu dân chi nạn, tế nhân chi cấp, mẫn nhân chi cô, dung nhân chi quá, quảng hành âm chất, thượng cách thương khung. (Văn Xương Đế Quân cứu nạn dân chúng, giúp người trong khốn khó nguy cấp, xót thương kẻ bơ vơ, khoan dung lỗi lầm của thế nhân, [ai] thi hành rộng khắp âm chất được đặc cách lên trời [ghi tên trong Tiên tịch]).

Đồng thời khuyến dạy người đời: "Hành thời thời chi phương tiện, tác chủng chủng chi âm công, lợi vật lợi nhân, tu thiện tu phúc, chính trực đại thiên hành hóa, từ tường vị quốc cứu dân, trung chủ hiếu thân, kính huynh tín hữu. Hoặc phụng Chân triều đẩu, hoặc bái Phật niệm kinh, báo đáp tứ ân, quảng hành Tam giáo." (Thường thi hành tiện ích, tạo vô vàn công đức vô hình, ích lợi cho người cho vật, tu thiện tu phúc, chính trực thay Trời hành hóa đạo đức, từ ái vì nước cứu dân, trung vua hiếu cha mẹ, kính trọng huynh trưởng, tin cậy bằng hữu. Hoặc thờ Tiên tu đạo, hoặc bái Phật niệm kinh, để báo đáp bốn ân và quảng hành Tam giáo). Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn là một trong tam đại khuyến thiện thư của Đạo giáo, có ảnh hưởng rất lớn trong dân gian.

Từ đời Nguyên và đời Minh về sau, các địa phương ở Trung quốc kiến tạo rất nhiều cung và đền miếu thờ Văn Xương Đế Quân (gọi là Văn Xương Cung, Văn Xương Từ, Văn Xương Các) nguy nga, hiện nay vẫn còn.

Đài Loan hiện có 29 miếu thờ Văn Xương Đế Quân.

Tại Việt Nam, Văn Xương Đế Quân được thờ trong đền Ngọc Sơn nơi Hồ Hoàn Kiếm Hà Nội kể từ khi đền được trùng tu năm Thiệu Trị thứ nhứt (1841), ngoài ra Ngài còn được thờ trong các ngôi chùa miếu của người Hoa. Đạo giáo lấy ngày 3 tháng 2 âm lịch làm ngày vía Đức Văn Xương Đế Quân.

Khi Văn Xương Đế Quân du hành, tùy tòng có Huyền Đồng Tử (Thiên lung: trời điếc) và Địa mẫu (Địa á: đất câm). Hai tùy tòng có nhiệm vụ biệt lập về hành chánh, phụ giúp Văn Xương Đế Quân. Để giữ công bình và bí mật, Thiên lung không thể lắng nghe những lời van xin cầu khẩn của thế nhân, Địa á không thể tiết lộ cho họ những dự định của Đế Quân."

(Bài Lược khảo về Văn Xương Đế Quân nầy của Lê Anh Minh).

Trong quyển "Đại Động Chơn Kinh" 大洞眞經 in vào triều vua Hàm Phong nhà Thanh bên Tàu vào năm Đinh Tỵ (1857), có một bài kinh tụng về Văn Xương Đế Quân. Bài kinh nầy rất giống bài kinh Nho giáo trong kinh Nhựt Tụng của Đạo Cao Đài, xin chép ra sau đây:

桂香內殿
文昌上宮
九十五回
種善果於詩書之圃
百千萬化
培桂根於陰騭之田
自雷杼炳靈於鳳山
至如意儲祥於鰲岫
開人心必本於篤親之孝
壽國脈必先於致主之忠
夢保生垂慈憫苦
大仁大孝大聖大慈
神文聖武孝德忠仁
王新冊輔元開化
文昌司祿宏仁帝君
澄真正觀寶光慈濟天尊
(諱亞二月初三日生)

Phiên âm:

Quế Hương Nội Điện
Văn Xương Thượng Cung.
Cửu thập ngũ hồi,
Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố
Bá thiên vạn hóa
Bồi quế căn ư âm chất chi điền
Tự lôi trữ bính linh ư phụng sơn
Chí như ý trừ tường ư ngao trụ.
Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu.
Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung.
Ứng mộng bảo sanh, thùy từ mẫn khổ
Đại nhơn đại hiếu, đại Thánh đại từ,
Thần văn Thánh võ, hiếu đức trung nhơn,
Vương tân sách phụ nguyên khai hóa
Văn Xương tư lộc, hoành nhơn đế quân,
Trừng chơn chánh quan,
Bửu quang từ tế Thiên Tôn.
(Húy Á nhị ngoạt sơ tam nhựt sanh)
(Tên húy là Á, ngày sanh là mùng 2 tháng 3)
(Tài liệu của Lê Anh Dũng)



Tích Khác

Văn Xương Đế Quân

Lai Lịch Của Văn Xương Đế Quân :
Văn Xương Tinh Quân Chiếm Đầu Bá Hạ ( Biểu Tượng Của Công Thành Danh Toại )
Văn Xương Đế Quân tên gọi của 6 ngôi sao trên trời , tức là Văn Xương Cung. Một thuyết nói là ở phía trước Bắc Đẩu Khôi , một thuyết nói tại bên trái Bắc Đẩu . Sáu sao này đều có tên riêng , gọi là Thượng Tướng, Thứ Tướng , Quý Tương , Tư Mệnh , Tư Lộc . Tất cả gọi chung là Văn Xương Đế Quân , cũng còn gọi là Tử Đồng Đế Quân , có tên gọi này là vì thời
Nguyên Nhân Tông ( Trung Quốc ) . Vào năm thứ 3 Diên Hữu Nguyên Nhân Tông phong Tử Đồng Thần là “Phụ Nguyên Khai Hóa Văn Xương Tư Lộc Hoành Nhân Đế Quân” . Tử Đồng Thần và Văn Xương Thần được hợp nhất làm một Thần . “Minh Sử” trong phần “Lễ Chí” nói “ Tử Đồng Đế Quân , họ Trương, tên Á Tử , sống ở Thất Khúc Sơn đất Thục , đánh nhau với quan nhà Tấn chết , người đời lập miếu cúng lễ !” . Trương Á Tử tức là Trương Dục ở đất Thục , năm Ninh Khang thứ hai đời Đông Tấn tự xung là Thục Vương, khởi nghĩa đánh nhau với Tần Phù một thời gian dài rồi chết . Người đời sau nhớ đến Trương Dục, xây dựng từ thờ ở núi Thất Khúc , tôn làm Lôi Trạch Long Vương . Sau Trương Dục Từ ( Nơi thờ Trương Dục ) với Đồng Sơn thờ Tử Đồng Thần Á Tử hợp làm một . Trương Dục gọi sang thành Trương Á Tử . Đường Huyền Tông lúc gặp loạn An Lộc Sơn chạy vào đất Thục ( Giữa đường quân lính ép ông phải giết Dương Quý Phi tại gò Mã Ngôi tạo thành mối tình thiên thu uất hận ) khi đi qua núi Thất Khúc , trong mộng gặp Anh Liệt Trương Á Tử ,bèn truy phong làm Tả Thừa Tướng , tế lễ rất trọng . Đường Hy Tông trong lúc gặp loạn cũng vào Thục , đi qua Thất Khúc Sơn cũng thân hành Lễ Tử Đồng Thần , phong Trương Á Tử làm Tế Thuận Vương , lại cởi ngọc bội và kiếm báu của mình hiến kính cho Thần . Vào đời nhà Tống cũng có nhiều sắc phong , như Tống Chân Trông phong Trương Á Tử là Anh Hiển Vũ Liệt Vương , Tống Quang Tông phong là Trung Văn Nhân Vũ Hiếu Đức Thánh Liệt Vương , Tống Lý Tông phong là Thần Văn Thánh Vũ Hiếu Đức Trung Nhân Vương . Nguyên Nhân Tông năm Diên Hữu thứ hai ( 1316 ) phong Trương Á Tử là Phụ Nguyên Khai Hóa Văn Xương Tư Lộc Hoành Nhân Đế Quân vì thế Tử Đồng Thần Trương Á Tử cũng gọi là Văn Xương Đế Quân .
Trung Thành Với Người Trên Hiếu Với Cha Mẹ :
Văn Xương Đế Quân do khởi nghĩa mà chết , là trung chủ cứu dân công tích lơn , “Tử Đồng Đế Quân Hóa Thư” nói Trương Á Tử , lúc còn nhỏ mẹ bị ung mủ nặng , liền dùng miệng hút mủ cho mẹ , lại trong lúc đêm tối cắt thịt đùi nấu cho mẹ ăn , mẹ liền khỏi bệnh .Sau trị bệnh dịch lan tràn cho dân , mộng được Thần cho “Đại Động Tiên Kinh” cùng bùa phép , nói có thể trị tà đuổi bệnh , liền làm theo thấy ứng nghiệm . Vì thế Văn Xương Đế Quân là tấm gương Từ Tường Hiếu Thân (Từ bi tốt lành hiếu với cha mẹ ) . Vào thời Tống Nguyên tạo thành trong sách “Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn” ghi chép các chuyện người xưa học tập thành tài cứu giúp mọi người , làm việc thiện mà được phúc , chứng minh chân lý “ Có Thiện Thiện Báo, Có Ác Báo Ác” , quả báo gần tất là nơi mình , quả báo xa tất vào con cháu , đây chính là nhân quả báo ứng, khuyến khích con người ta hành thiện tích đức .
Văn Xương Tư Mệnh :
Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn” nói Văn Xương Đế Quân có 73 thứ giáo dục con người, từ Sĩ Đại Phu , từ Quan Thanh Liêm , đến trăm họ nhân gian, cùng không cho sương gió xâm phạm . “Trợ người trong nạn , cứu người lúc nguy cấp , an ủi người mà côi , dung nạp người thái quá , bóng mát thật lớn ( Quảng Hành Âm Chất ) , cao lớn như trời ”. Bởi vì Thiên Đế mệnh lệnh cho Văn Xương Đế Quân quản lý sổ công danh mọi sự , phàm nhân gian mà chăm hương khói thờ phụng rồi học tập , tất được lựa chọn. Đăng khoa có danh có lộc , xướng tên bảng vàng , cho đến hai phủ qua lại tất cả đều do Văn Xương Đế Quân quản lý .
Thờ Phụng :
Sau thời Nguyên Minh , theo sự biến đổi của chế độ khoa cử mà sự thờ phụng Văn Xương Đế Quân cũng dần chở nên phổ biến . Các nơi đều có Văn Xương Cung , Văn Xương Các hoặc Văn Xương Từ , trong tất cả thì Văn Xương Cung ở huyện Thất Khúc Sơn ở Tứ Xuyên là lớn nhất ( Ảnh Trên Cùng), có một số thư viện hoặc trường học cũng có thờ Văn Xương Đế Quân , tuy thời thế có lúc thăng trầm nhưng việc kính lễ thờ phụng Văn Xương Đế chưa bao giờ bị bỏ . Ngày xưa mỗi năm vào ngày 3 tháng 2 là ngày Thần Đản của Văn Xương Đế Quân , quan phủ cùng các học trò nơi địa phương lại đến Văn Xương Miếu tế lễ , sau đó ngâm thơ làm văn , đánh cờ , gảy đàn tạo thành Hội Văn Xương .
Trích Trong Kho Tàng Tư Liệu Đạo Giáo
www.phongthuy123.com – A Tư Tiểu Khang Dịch .

Văn Xương Linh Phù
Văn Xương Phù Hiệu Quả : Đọc sách nhanh hiểu , công tác thuận lợi ,
1)Phương Pháp Sử Dụng Gấp Linh Phù thành hình tam giác đeo trong người .
2)Gấp Linh Phù thành hình tam giác đặt tại nơi thường đọc sách .
3)Năm 2007 treo Linh Phù ở Tây , Đông Nam .
4)Dùng Phù này thêm 8 Nguyên Bảo ( Vàng Thoi ) 8 Thọ Kim ( Tiền Vàng ) đặt tại ngoài cửa , nếu cần gấp có thể mỗi ngày đốt 1 là Phù liên tục 7 ngày tất có ứng nghiệm .


Tứ Đại Nguyên Soái

Tứ đại nguyên soái trong thần thoại Trung Hoa là bốn vị thần tướng canh giữ trên thiên đình

Tứ đại Nguyên soái gồm:

  • Mã nguyên soái, còn gọi là Mã nguyên quân, Hoa Quang thiên vương, Hoa Quang đại đế
  • Triệu nguyên soái, tức là Vũ Tài thần Triệu Công Minh, Triệu Huyền Đàm
  • Ôn nguyên soái, tức là Ôn Quỳnh, Đông nhạc đế bộ tướng
  • Quan nguyên soái, tức là Quan Vũ, Quan thánh Đế quân

Trong bốn đại nguyên soái này, Triệu nguyên soái Triệu Công Minh được thờ như là vị thần tài giữ của cải, được các nhà buôn bán thờ. Quan nguyên soái tức Quan Vũ là người có thật, sống vào thời Tam Quốc, được thờ ở rất nhiều nơi.

Triệu Công Minh

http://www.phongthuyquan.vn/components/com_virtuemart/show_image_in_imgtag.php?filename=%2Fcomponents%2Fcom_virtuemart%2Fshop_image%2Fproduct%2FIMG_1230.jpg&newxsize=150&newysize=150&fileout=

Thần tài Triệu Công Minh theo tục truyền thì ông sinh vào đời Tần,tu hành đắc đạo thành tiên, được thiên đế phong là " Lôi Phó NguyênSoái" (tức là phó nguyên soái Thiên Lôi) trên đầu đội mũ sắt cưỡi trênlưng cọp màu đen, mặt đen râu rậm, tay vung roi sắt, phù hộ cho ngườibuôn bán, giúp thương gia kiếm được nhiều tiền, chức vụ đầy đủ của ônglà " Triệu Nguyên Soái tổng quản chấp pháp trên lưng hổ nhiều bánh ởthượng giới trong đàn Thanh chính nhất huyền".

Tục gọi là Triệu Nguyên Soái hay Triệu Huyền Đàn. Ngài cũng gọi là Võ Tài Thần có thể chiêu tài hóa sát.


Quan Vũ

http://www.phongthuy.com.vn/ProductFolder/Thumbnails/1141670707.jpg

xem chi tiết về Quan Vũ tại link

http://tamlinhhoc.blogspot.com/2011/08/quan-vu.html


Tứ Trực Công Tào

Tứ trực Công tào là bốn vị thần trông coi về thời gian trên thiên đình trong thần thoại Trung Hoa

Tứ trực công tào gồm:

  • Trực Niên thần Lý Bính: trông coi về năm
  • Trực Nguyệt thần Thừa Ất: trông coi về tháng
  • Trực Nhật thần Chu Đăng: trông coi về ngày
  • Trực Thời thần Lưu Hồng: trông coi về giờ

Tứ Phương Thần

http://truongton.net/forum/picture.php?albumid=33214&pictureid=677552


Tứ phương thần là bốn vị thần trên thiên đình trông coi bốn phương trời đất trong Đạo giáothần thoại Trung Hoa

Tứ phương thần gồm:

Thiên Văn cổ chia bầu trời ra 4 phương, mỗi phương gồm 7 chòm sao, vì có bốn phương đông tây nam bắc nên có 28 chòm sao thường gọi là nhị thập bát tú:

Huyền vũ
http://t2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSO0cvVII-S4s1pebPAkbZu0YI25VYrw2hZO2Mdmvk2cWYByMHV
Huyền Vũ là một trong Tứ tượng của Thiên văn học Trung Quốc, và cũng là một khái niệm rộng trong phong thủy, thuyết âm dương, triết học.

Huyền Vũ là linh vật thiêng liêng có tượng là hình con rắn quấn quanh con rùa, có màu đen (huyền,) là màu của hành Thủy ở phương Bắc, do đó tương ứng với mùa đông.

Hình dạng khởi thủy của Huyền Vũ là con "vũ" màu đen, với Vũ là một linh vật kết hợp của rắn và rùa. Đây là linh vật rất cổ của Trung Hoa. Trong truyền thuyết về tổ của người Trung Quốc, Phục Hi là Tổ phụ, Nữ Oa là Tổ mẫu, thì Phục Hi có hình rắn, Nữ Oa có hình rùa. Sự kết hợp giữa rắn và rùa cho thấy một totem cổ đại từ xa xưa, tượng trưng cho sự Trường Tồn và Sức Mạnh

Hình tượng Huyền Vũ có liên quan mật thiết đến một vị thần có vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế, ông còn các danh xưng khác: Thượng đế tổ sư, Đãng ma thiên tôn, Hỗn nguyên giáo chủ, Bắc cực huyền linh đại đế. Ông có 2 con vật thiêng là Linh Quy và Thần Xà, tượng trưng cho sự trường tồn và trí tuệ. Vì vậy chữ "Vũ" trong "Huyền Vũ" ở đây với nghĩa là "sức mạnh" gồm cả rùa và rắn

Phương Bắc với biểu tượng con rùa đen, gọi là Hoa Cái, với 7 chòm sao : Đẩu Mộc Giải (Cua), Ngưu Kim Ngưu (Trâu), Nữ Thổ Bức (Dơi), Nhật Thử (Chuột), Nguy Nguyệt Yến (Én), Thất Hỏa Trư (Lợn), Bích Thủy Du (Nhím) :

By chòm sao Hoa Cái ch phương Bc




Bạch hổ ( Phong)


Bạch Hổ (白虎) là một trong Tứ tượng của Thiên văn học Trung Quốc, và cũng là một khái niệm rộng trong phong thủy, thuyết âm dương, triết học.

Bạch Hổ là linh vật thiêng liêng có tượng là hình con hổ (虎), có màu trắng (bạch, 白) là màu của hành Kim ở phương Tây, do đó tương ứng với mùa thu.

Trong thiên văn, Bạch Hổ chỉ cung gồm 7 chòm sao phương tây trong Nhị thập bát tú, đó là:
Cung Bạch Hổ gồm 7 chòm sao trong thiên văn học Trung Quốc

* Khuê Mộc Lang (Khuê)
* Lâu Kim Cẩu (Lâu)
* Vị Thổ Trệ (Vị)
* Mão Nhật Kê (Mão)
* Tất Nguyệt Ô (Tất)
* Chủy Hỏa Hầu (Chủy)
* Sâm Thủy Viên (Sâm)

Trong các chòm đó, thì chỉ có hai chòm Chủy và Sâm tạo thành hình con hổ, với Chủy là đầu hổ, Sâm là bốn chân và thân hổ. Các chòm này xuất hiện giữa trời vào mùa thu

Trong Phong thủy, Bạch Hổ tương ứng với thế đất caoPhương Tây với biểu tượng con hổ trắng, gọi là Bạch Hổ, với 7 chòm sao: Khuê Mộc Lang (Sói), Lâu Kim Cẩu (Chó), Vị Thổ Trĩ (Trĩ), Mão Nhật Kê (Gà), Tất Nguyệt Ô (Quạ), Chủy Hỏa Hầu (Khỉ), Sâm Thủy Viên (Vượn) :

By chòm sao Bch H ch phương Tây




Thanh Long(Lôi)

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1024x768.

Thanh Long (青龍) hay Thương Long là một trong Tứ tượng của Thiên văn học Trung Quốc, và cũng là một khái niệm rộng trong phong thủy, âm dương, triết học.

Thanh Long là linh vật thiêng liêng bậc nhất trong Tứ tượng, thời cổ đại gọi là Thương Long, có tượng là hình rồng (long, 龍), có màu xanh (thanh, 青) màu của hành Mộc ở phương Đông, do đó tương ứng với mùa xuân

Trong thiên văn, Thanh Long chỉ cung gồm 7 chòm sao phương đông trong Nhị thập bát tú, đó là:

* Giác Mộc Giảo (sao Giác)
* Cang Kim Long (sao Cang)
* Đê Thổ Lạc (sao Đê)
* Phòng Nhật Thố (sao Phòng)
* Tâm Nguyệt Hồ (sao Tâm)
* Vĩ Hỏa Hổ (sao Vĩ)
* Cơ Thủy Báo (sao Cơ)

Trong đó Giác là hai sừng của rồng, Cang là cổ của rồng, Đê là chân trước của rồng, Phòng là bụng của rồng, Tâm là tim của rồng, Vĩ là đuôi của rồng, Cơ là phân của rồng. Bảy chòm sao này xuất hiện giữa trời tương ứng với mùa xuân.

Hai sao Phòng và Tâm là gần nhau nhất trong cung Thanh Long, có nhiều đặc điểm tương đồng về độ sáng, cấu tạo, chu kỳ, ... nên thời được ví như hai chị em sinh đôi.

Trong phong thủy, đại long mạch thì Thanh Long tương ứng với các dãy núi dài, hoặc dòng sông dài. Chẳng hạn với thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay) thì sông Hồng chảy ở phía Đông là thế Thanh Long. Đối với kinh thành Huế thì cồn Hến ở giữa sông Hương, ở về phía đông là Thanh Long.

Phương Đông với biểu tượng con rồng xanh, gọi là Thanh Long, với 7 chòm sao: Giốc Mộc Giao (Sấu), Cang Kim Long (Rồng), Đê Thổ Lạc Cu (Ly), Phòng Nhật Thổ (Thỏ), Tâm Nguyệt Hồ (Cáo), Hỏa Hổ (Cọp), Thủy Báo (Báo).

By chòm sao Thanh Long ch phương Đông (ngun : Trn Nht Thành)




Chu tước( Hỏa)

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1024x768.

Chu Tước (朱雀) là một trong Tứ tượng của Thiên văn học Trung Quốc, và cũng là một khái niệm rộng trong phong thủy, thuyết âm dương, triết học Phương Đông.

Chu Tước thời cổ còn gọi là Chu Điểu (朱鳥, con chim màu đỏ) là linh vật thiêng liêng có tượng là hình con chim sẻ (tước 雀), có màu đỏ (chu, 朱) là màu của hành Hỏa ở phương Nam, do đó tương ứng với mùa hạ.
Trong thiên văn, Chu Tước chỉ cung gồm 7 chòm sao phương nam trong Nhị thập bát tú, đó là:

* Tỉnh Mộc Hãn (sao Tỉnh)
* Quỷ Kim Dương (sao Quỷ)
* Liễu Thổ Chương (sao Liễu)
* Tinh Nhật Mã (sao Tinh)
* Trương Nguyệt Lộc (sao Trương)
* Dực Hỏa Xà (sao Dực)
* Chẩn Thủy Dẫn (sao Chẩn)

Trong đó Tỉnh tượng hình mỏ chim, Quỷ tượng hình mào chim, Liễu tượng hình diều chim, Tinh tượng hình cổ chim, Trương tượng hình bụng chim, Dực tượng hình cánh chim, Chẩn tượng hình đuôi chim.

3 sao Liễu, Tinh, Trương có vị trí gần nhau nhất trong cung Chu Tước thường xuất hiện cùng lúc trên bầu trời tạo thành một đường thẳng.

Đối chiếu với văn minh Phương Tây, Chu Tước thường được so sánh với Phoenix, phượng hoàng lửa có sự trường sinh, sức mạnh hồi sinh. Tuy nhiên hai hình tượng và khái niệm tương ứng không giống nhau, Chu tước phương Đông không phải Phượng hoàng.

Phương Nam với biểu tượng con phượng đỏ, gọi là Phượng Các, với 7 chòm sao : Tỉnh Mộc Hãn (Cầy), Quĩ Kim Dương (Dê), Liễu Thổ Chương (Hoẵng), Tinh Nhật Mã (Ngựa), Trương Nguyệt Lộc (Nai), Dực Hỏa Xà (Rắn), Chẩn Thủy Dẫn (Giun):

By chòm sao Phượng Các ch phương Nam


2011-08-20

Thập Nhị Kim Thoa-Hồng Lâu Mộng

Hồng lâu mộng
紅樓夢
JiaXu01.jpg
Trang đầu bản gốc của Hồng lâu mộng
Tác giả Tào Tuyết Cần
Tựa gốc 石頭記
Quốc gia Trung Quốc
Ngôn ngữ Tiếng Trung
Thể loại Tiểu thuyết Minh Thanh
Ngày phát hành Thế kỉ XVIII
Kiểu sách Ấn bản

Hồng lâu mộng ( (chữ Hán giản thể: 红楼梦, chính thể: 紅樓夢, latin hóa: Hónglóu mèng)) hay tên gốc Thạch đầu kí ( (chữ Hán giản thể: 石头记, chính thể: 石頭記, latin hóa: Shítóu jì)) là một trong bốn kiệt tác (tứ đại kì thư) của văn học cổ điển Trung Quốc (3 kiệt tác kia là Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Tây du kí của Ngô Thừa ÂnThủy Hử của Thi Nại Am). Tác phẩm được Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa thế kỉ 18 triều đại nhà Thanh của Trung Quốc.

Tác phẩm ra đời vào khoảng giữa thế kỉ XVIII, đời nhà Thanh, 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần (曹雪芹) viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc viết thêm và soạn thành sách. Ngoài ra Hồng lâu mộng còn có một số tên khác như:

  • Thạch Đầu Kí tức là chuyện Thần Anh đầu thai xuống hạ giới trả nợ tình duyên rồi lại trở về kiếp đá.
  • Tình Tăng lục hay Phong Nguyệt bảo giám
  • Thập nhị kim thoa lấy chuyện mười hai cô gái đẹp trong truyện để đặt tên.
  • Kim Ngọc kì duyên: Bảo Thoa có vàng, Bảo Ngọc có ngọc nên Bảo Ngọc lấy Bảo Thoa là Kim Ngọc kì duyên.


Mục lục

[ẩn]

Ngôn ngữ

Ban đầu tiểu thuyết được viết bằng tiếng Trung Quốc địa phương chứ không phải tiếng Trung Quốc cổ. Ngày nay tác phẩm được in ấn và lưu giữ bằng tiếng Quan thoại, nền tảng chuẩn của ngôn ngữ Trung Quốc hiện đại và chịu ảnh hưởng từ Phương ngữ Nam Kinh

Tiểu thuyết đã được dịch ra 20 thứ tiếng phổ biến trên thế giới như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Hi Lạp, tiếng Nhật, tiếng Triều Tiên, tiếng Việt v.v.

Bối cảnh xã hội

Một cảnh trong truyện

Thời nhà Thanh, dười thời Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là thời kinh tế cực thịnh, chẳng những nông nghiệp, thủ công nghiệp mà cả khai khoáng, thương nghiệp cũng phát triển phồn vinh. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Vũ Xương, Nhạc Châu... buôn bán sản xuất sầm uất, là những đô thị lớn. Nền kinh tế tự phát tư bản chủ nghĩa xuất hiện trong lòng xã hội phong kiến chuyên chế mọt ruỗng đang trên đà tan rã, đã sản sinh ra một lớp thị dân thành thị, có những nhu cầu thẩm mĩ mới. Tây sương kí, Mẫu đơn đình, Liêu trai chí dị,... là những tác phẩm miêu tả tình yêu, những số phận, những buồn vui cá nhân..., chính là sự "thăng hoa" của cuộc sống tinh thần đã bắt đầu khác trước của người thành thị. Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều cổ hủ đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương và mưu cầu hạnh phúc, giải phóng cá tính, khao khát tự do bình đẳng, lý tưởng cho cuộc sống... Tất cả những cái đó có mặt kế thừa tư tưởng dân chủ thời Minh và đầu thời Thanh, nhưng đó chính là sản phẩm của ý thức tư tưởng thị dân đương thời.

Tác giả

Bài chi tiết: Tào Tuyết Cần

Tác giả của Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần (phồn thể: 红楼梦; bính âm: Cao Xueqin ) (1715(?)-1763(?)) tên là Triêm, tên tự là Mộng Nguyễn, Cần Phố, hiệu là Tuyết Cần, Cần Khê, người Thẩm Dương, vốn dòng dõi người Hán, sau nhập tịch Mãn Châu. Ông sống trong triều đại phong kiến nhà Thanh, Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, gia đình đời đời thế tập chức Giang Ninh chức tạo là một chức quan to thu thuế tại Giang Ninh thành. Năm lần vua Khang Hi tuần du Giang Nam thì bốn lần ngự tại Tào phủ. Cuộc sống trong phủ vô cùng xa hoa vương giả.

Không những là nhà hào môn vọng tộc lẫy lừng mà nhà họ Tào còn có truyền thống văn chương thi phụ. Ông nội Tào Dần còn là một danh sĩ nổi tiếng vùng Giang Ninh, đã từng in bộ Toàn đường thi nổi tiếng. Nhưng đến đời của Tào Tuyết Cần, tất cả sự giầu sang quyền quý huy hoàng của gia đình đã trở thành quá khứ. Gia đình gặp đại họa, cha mắc tội, bị cách chức, hạ ngục, tịch biên tài sản. Ông đã phải sống trong những ngày cay đắng nhất của đời mình với nghèo khổ, đi khắp nơi để mưu sinh, sống trong cảnh "cả nhà rau cháo, rượu thường mua chịu".

Mười năm cuối đời ông đã dồn toàn bộ trí lực để tạo nên kiệt tác Hồng Lâu Mộng, một trong những tác phẩm về sau được đánh giá là kinh điển của văn học Trung Quốc. Tác phẩm đã được ông sửa chữa 5 lần trong cảnh cùng khốn, ốm đau không tiền mua thuốc, con chết. Khi ông còn sống tác phẩm đã không hoàn thành và không được công bố. Sau khi ông qua đời, hai mươi tám năm sau, Cao Ngạc đã dựa vào di thảo của ông để hoàn thành nốt bằng việc viết tiếp 40 hồi. Cao Ngạc cũng đổi tên "Thạch Đầu Kí" thành "Hồng Lâu Mộng" để phù hợp với nội dung tác phẩm. 40 chương sau của Hồng Lâu Mộng được Cao Ngạc viết tiếp không hay như 80 chương đầu vì ông không có được cái trải nghiệm đau đớn như Tào Tuyết Cần. Nhưng với 40 chương mang đến cho tác phẩm sự trọn vẹn, cho thấy họ Cao cũng là người đã sống với tác phẩm và đã nghiên cứu rất kĩ về văn phong của tác giả. Có lẽ ngoài Cao Ngạc không còn người nào viết tiếp Hồng Lâu Mộng hay hơn ông.

Đến khoảng 1792-1793 thì Hồng Lâu Mộng được in và lưu truyền khắp Trung Quốc. Người ta cho rằng cốt truyện dựa trên hiện thực của chính dòng họ, gia đình Tào Tuyết Cần trước đây, là chuỗi tự sự lớn nhất của đời ông, như là một sự nuối tiếc thời kì vàng son rực rỡ, đồng thời nó cũng phản ánh bản chất xã hội phong kiến Trung Quốc giai đoạn ông sống. Như lời ông nói, ông viết nó không phải nhằm mục đích phê phán chế độ xã hội đương thời hay nhằm mục đích gì, ông chỉ viết để mang mục đích bày tỏ tâm sự của bản thân, giải tỏa nỗi niềm "cô phẫn" nên không có ý định xuất bản. Tuy nhiên ông đã tốn rất nhiều sinh lực và tâm huyết trong mười năm cuối cùng của cuộc đời, đến nỗi ông cũng phải thốt lên:

:Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết
Cay đắng mười năm khéo lạ lùng".

Cốt truyện

Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.

Tác phẩm xoay quanh câu chuyện tình duyên trắc trở giữa hai anh em con cô con cậu: Giả Bảo NgọcLâm Đại Ngọc, từ đó mô tả cuộc sống nhiều mặt của một đại gia đình quý tộc đời Minh từ lúc cực thịnh cho đến lúc suy vi trong vòng tám năm.

Tiểu thuyết mở đầu bằng một huyền thoại: Nữ Oa luyện đá ngũ sắc vá trời, luyện được năm vạn lẻ một viên. Viên linh thạch còn thừa được đưa về trời chăm sóc cây tiên Giáng Châu. Thần Anh và Giáng Châu duyên nợ, chịu ơn nhau nên phải đầu thai xuống hạ giới để "lấy hết nước mắt của đời ta để trả lại cho chàng". Từ đó dẫn ra bao nhiêu oan gia phong lưu đều phải xuống trần để trả duyên nợ, sinh ra bao nhiêu chuyện sau này.

Đá thiêng hóa thành Giả Bảo Ngọc. Cây thiêng hóa thành Lâm Đại Ngọc. Gia đình họ Giả vốn có nhiều công lao với triều đình, số lượng kẻ hầu người hạ có lúc lên tới 448 người, sống trong hai tòa dinh cơ tráng lệ bậc nhất Kinh thành. Ninh Quốc công và Vinh Quốc công là hai anh em ruột. Ninh Công là trưởng, sau khi mất con lớn là Giả Đại Hóa tập tước. Con cả Giả Phụ mất sớm, con thứ Giả Kính tập tước. Giả Kính chỉ say mê tu tiên luyện đan nên nhường cho con lớn Giả Trân tập tước, con gái thứ là Giả Tích Xuân được đem sang ở trong phủ Vinh Quốc. Giả Trân (vợ Vưu Thị) có một đứa con trai là Giả Dung (vợ là Tần Khả Khanh), hai cha con chẳng chịu học hành, chỉ lo chơi bời cho thỏa thích, đảo lộn cả cơ nghiệp phủ Ninh. Còn phủ Vinh, sau khi Ninh Công chết, con trưởng là Giả Đại Thiện tập tước. Sau khi mất, Vợ Thiện là Giả mẫu (họ Sử) trở thành người cầm cân nảy mực của gia đình. Giả mẫu có ba con, con trưởng là Giả Xá (vợ là Hình phu nhân) được tập tước. Xá có con trai là Giả Liễn (vợ là Vương Hy Phượng) và con gái (con nàng hầu) là Giả Nghênh Xuân. Em của Xá là Giả Chính (có vợ là Vương phu nhân) được Hoàng thượng đặc cách phong tước. Giả Chính có ba người con, con lớn Giả Châu (vợ là Lý Hoàn) mất sớm, để lại một con trai là Giả Lan; con gái thứ Nguyên Xuân tiến cung làm phi tử ; Giả Bảo Ngọc là cậu ấm hai, sinh ra đã ngậm một viên "Thông linh Bảo Ngọc", là niềm hi vọng của gia đình họ Giả. Ngoài ra còn có Giả Thám Xuân và Giả Hoàn là con của nàng hầu Triệu Di Nương. Giả Chính và Giả Xá còn có một em gái tên Giả Mẫn, lấy chồng là Lâm Như Hải người Cô Tô, làm quan Diêm chính thành Duy Dương, có một cô con gái tên Lâm Đại Ngọc. Bố mẹ mất sớm, Đại Ngọc được Giả mẫu đem về nuôi trong phủ Vinh Quốc.

Trong Vinh quốc phủ còn có gia đình của Tiết phu nhân, vốn là em gái Vương phu nhân, cùng con trai cả Tiết Bàn và con gái Tiết Bảo Thoa vừa vào Kinh cùng đến ở.

Tình Văn đang ốm vùng dậy vá áo cừu

Vì con gái của Giả Chính là Nguyên Xuân được vua phong là Nguyên phi nên để mỗi lần về tỉnh thân, phủ Vinh quốc cho xây dựng vườn Đại quan cực kì tráng lệ huy hoàng. Khu vườn Đại quan này chỉ dành cho 12 cô tiểu thư xinh đẹp của hai phủ Vinh và phủ Ninh lui tới vui chơi. Giả Bảo Ngọc là cậu ấm duy nhất được lui tới và tìm được người tâm đầu ý hợp là Lâm Đại Ngọc. Nhưng mọi người trong gia đình không muốn cuộc hôn nhân này diễn ra. Lâm Đại Ngọc là người con gái dung mạo tuyệt sắc, là một tâm hồn thi phú đích thực nhưng vô cùng nhạy cảm và mảnh mai, lại cám cảnh ăn nhờ ở đậu nên tính tình càng thêm sầu bi, cô độc. Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, tâm hồn nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều âm vang một điều bi thương đứt ruột. Nàng cho rằng Bảo Ngọc không cần thi cử, làm quan; lánh xa công danh phú quý. Trong khi đó, Bảo Thoa, người con gái đài các, sắc sảo, đức hạnh theo đúng khuôn phép chuẩn mực phong kiến lại luôn khuyến khích Bảo Ngọc học hành đỗ đạt để lọt vào tầm ngắm của các bậc huynh trưởng trong dòng họ. Lúc đầu, Bảo Ngọc còn phân vân trước tình yêu của Bảo Thoa, "gần cô chị thì quên khuấy cô em"; song dần dần, nhận thấy Bảo Thoa chỉ mong ngóng cái danh "lập thân", nên Bảo Ngọc đã dành trái tim mình cho Đại Ngọc, mong muốn lấy nàng làm vợ. Gia đình họ Giả coi đó là một tai họa.

Trong lúc thế lực của hai phủ họ Giả bị lung lay do mắc tội với triều đình, cả hai phủ đều bị phân li, kẻ chết người đi đày, trong một cố gắng cuối cùng nhằm cứu vãn gia tộc, Phượng Thư (chị dâu của Bảo Ngọc) đã đặt kế tráo hôn. Khi mở khăn che mặt cô dâu thấy không phải Đại Ngọc, Bảo Ngọc bỏ đi, về sau hóa thành đá. Lâm Đại Ngọc nghe tiếng pháo đám cưới của Bảo Ngọc, uất ức phát bệnh, ho ra máu mà chết. Kết thúc pho truyện là một khúc nhạc ai oán cho cuộc sống vương giả như mây tan bèo dạt, như một "giấc mộng trong chiếc lầu hồng" như một sự chiêm nghiệm về lẽ đời của họ Tào. Cũng có một kết thúc khác là Bảo Ngọc chấp nhận sống với Bảo Thoa, sinh được con trai nối dõi, chăm chỉ học hành thi đỗ cử nhân rồi xuất gia nhưng cái kết này không được độc giả yêu thích, cũng có thuyết cho là của người sau thêm vào.

Hết phần cho biết trước nội dung.

[sửa] Hệ thống văn bản

Văn bản Hồng lâu mộng có thể chia làm hai loại là Chi bản (bản chữ sáp, do Chi Nghiễn Trai phê bình) và Trình bản (bản chữ rời, do Trình Vĩ NguyênCao Ngạc đồng xuất bản).

Các bản 80 hồi

Trước năm 1791, Hồng lâu mộng chỉ có 80 hồi và mang tên Chi Nghiễn Trai trùng bình Thạch đầu ký 脂砚斋重评石头记, trong đó ngoài phần chính văn còn có lời bình. Các bản quan trọng là:

  • Bản Giáp Tuất (1754): mang tên Chi Nghiễn Trai trùng bình Thạch đầu ký, hiện còn lại 16 hồi (từ hồi 1 - hồi 8, hồi 13 - hồi 16, hồi 25 - 28), một quyển gồm 4 hồi, tổng cộng là 4 quyển.
  • Bản Kỉ Mão (1759): mang tên Chi Nghiễn Trai trùng bình Thạch đầu ký, hiện còn lại các hồi: 1 - 20, 31 - 40, nửa sau hồi 55, 56 - 58, nửa đầu hồi 59, 61 - 63, 65, 66, 68 - 70.
  • Bản Canh Thìn (1760): mang tên Chi Nghiễn Trai trùng bình Thạch đầu kí, còn lại 78 hồi, khuyết hai hồi 64 và 67, chia thành 8 quyển, mỗi quyển 10 hồi, trong đó các hồi 17, 18 chưa phân hồi, hồi 19 không có đề mục. Đây được xem là bản phê bình Thạch đầu kí hoàn chỉnh nhất hiện nay.

Các bản 120 hồi

  • Bản Trình Ất (1792): mang tên Hồng lâu mộng, Trình Vĩ Nguyên và Cao Ngạc đồng xuất bản, 120 hồi.

Các bản khác

Trên đây là 5 bản Hồng lâu mộng quan trọng nhất mà các nhà Hồng học thường dùng để nghiên cứu. Ngoài ra Hồng lâu mộng còn có các bản sau:

  • Bản Mông Cổ Vương phủ: gọi tắt là bản Mông phủ, mang tên Thạch đầu kí, phát hiện ở Vương phủ Mông Cổ vào thời nhà Thanh, 120 hồi.
  • Bản Thích Tự: còn gọi là bản Thạch Ấn, bản Thượng Hải, bản Nam Kinh, mang tên Thạch đầu kí, có lời tựa của Thích Lục Sinh, 80 hồi.
  • Bản Dương Tàng: còn gọi là bản Mộng Cảo, do Dương Kế Chấn sưu tầm, 120 hồi.
  • Bản Thư Tự: mang tên Hồng lâu mộng, còn lại từ hồi 1 - 40, có lời tựa của Thư Nguyên Vĩ vào năm Kỉ Dậu 1789.
  • Bản Nga Tàng: nguyên tên là bản Liệt Tàng, hiện lưu trữ tại Sở Nghiên cứu phương ĐôngSankt-Peterburg (Nga), còn lại 78 hồi, khuyết hồi 5, 6. Bản này không có tên thống nhất, trừ một số ít hồi đề tên Hồng lâu mộng, các hồi khác đều đề tên Thạch đầu kí.
  • Bản Mộng Giác chủ nhân (gọi tắt là bản Mộng Giác, còn gọi là bản Giáp Thìn - 1784): mang tên Hồng lâu mộng, có lời tựa của Mộng Giác chủ nhân, 80 hồi.

Các bộ sách viết tiếp Hồng lâu mộng

Do Hồng lâu mộng được nhiều người yêu thích nên có ngót 40 bộ sách viết tiếp như Hậu Hồng lâu mộng, Hồng lâu mộng bổ, Hồng lâu viên mộng... và có đến hơn 20 bộ phỏng tác như Kính hoa duyên, Thuỷ Thạch duyên. Gần đây có:

  • Hồng lâu mộng tân bổ của tác giả Trương Chi, gồm 30 hồi, xuất bản năm 1984.

Thi pháp nhân vật

Những nét mới trong thi pháp

Hồng Lâu Mộng không những đã đưa lại một nội dung mới mang ý nghĩa thời đại; nó còn làm được một việc vĩ đại nữa là đổi mới thi pháp tiểu thuyết Trung Quốc. Lỗ Tấn nói: “Từ khi Hồng Lâu Mộng ra đời, tư tưởng và cách viết truyền thống đã bị phá vỡ”. Tiểu thuyết Trung Quốc trước đây, chủ yếu là tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc, Thủy hử, Tây du... thiên về mô tả hành động, miêu tả hoạt động bên ngoài và lời nói của nhân vật. Con người trong những tiểu thuyết đó, sản phẩm của một nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất phương thức sản xuất châu á, có bề giản đơn, nhất quán trong một tính cách, rạch ròi trung, nịnh đôi đường. Những truyện ngắn “truyền kì”, những truyện ngắn trong Liêu Trai đã bắt đầu thấm đẫm màu sắc con người thị dân với những khát vọng nồng nhiệt hơn, phức tạp hơn nhưng vẫn chưa có một thi pháp tiểu thuyết thực sự phản ánh một cách nhìn mới về con người. Hồng Lâu Mộng đã làm được việc đó. Dĩ nhiên là trong những hạn chế gay gắt của thời đại. Dù cho có những nhân tố tư bản chủ nghĩa, nhân tố kinh tề hàng hóa, thị trường, thành phố, thị dân... xã hội Trung Quốc vẫn là xã hội phong kiến, và cái con người “mới” mà người ta chờ đợi đó đã xuất hiện chưa hoàn chỉnh; thi pháp tiểu thuyết trong Hồng Lâu Mộng đã mang một số nhân tố mới của tiểu thuyết cận đại phương Tây, nhưng nó không thể đi xa hơn nũa. Nó vẫn còn bị giam mình trong cái khung tiểu thuyết chương hồi truyền thống, lấy “kể việc” làm phương tiện chủ yếu khám phá của con người.

Xây dựng nhân vật

Trước hết, đó là cách nhìn con người trong sự phát triển đầy mâu thuẫn, sự phát triển biện chứng, có chiều sâu đầy kịch tính, được chiếu dọi từ nhiều phía và được đặt trong những mối quan hệ phức tạp.

Giả Bảo Ngọc

Bài chi tiết: Giả Bảo Ngọc

Số phận và tính cách của Bảo Ngọc đã được tác giả miêu tả không đơn giản. Đó là mâu thuẫn gĩưa khát vọng tự do và sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu chân thành và quý báu như chính sinh mệnh của anh ta và lạ thay, anh ta hầu như chẳng làm được gì, chẳng chiến đấu dũng manh gì để đoạt lấy hạnh phúc! Mọi việc gần như đã phó mặc! Trước khi chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn tặng, đốt tập thơ..., không phải là không có lý! Anh ta chưa bao giờ xứng đáng là một trang “tu mi nam tử” có lý tưởng, kiên định! Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt ngã của thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng “ngây”, cứ cười hì hì suốt ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng giải pháp “đi tu” - phản ánh sự từ chối, sự phản kháng dầu yếu ớt - đã được anh ta chọn lựa. Đi thi và thi đỗ cao để an ủi gia dình, rồi bó trốn đi tu, Bảo Ngọc đã đi hết sự phát triển tính cách một cách hợp lý và quả là qua số phận anh ta, như một số nhà nghiên cứu nhận định, có sự gởi gắm, có sự thể hiện một phần nào bản thân tác giả. Đó đúng là một số phận tiểu thuyết theo ý nghĩa hiện đại của từ này.

[sửa] Lâm Đại Ngọc

Một bản tranh khắc gỗ thời Thanh
Bài chi tiết: Lâm Đại Ngọc

Lâm Đại Ngọc là một tính cách thú vị khác. Nàng yêu Bảo Ngọc, nhưng do thân phận của nàng, mỗi khi Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại giận hờn, buồn tủi, làm ra vẻ cự tuyệt... “Bảo Ngọc cười nói: - Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành.(3) Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Bảo Ngọc: - Anh nói bậy, muốn chết đấy! Dám đem nhũng lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy”. Điều đó làm cho nàng trở nên đáng yêu và tội nghiệp, làm cho nàng trở nên nhiều nữ tính hơn. Không một nét giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều sâu tâm lý đa dạng, được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác. Phút cuối cùng nàng nghe nói Bảo Ngọc sắp lấy vợ, và người được chọn sẽ là người trong phủ, nàng chắc mẫm người đó sẽ là mình, chứa chan hy vọng, và từ đau buồn tuyệt vọng, trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp... Ai hay đó là phút nàng ở gần sự kết thúc nhất. Những cảnh như vậy làm cho nhân vật thực, gần gũi, phong phú, hấp dẫn.... và về mặt soi rọi tâm lý nhân vật, đã đạt đến trình độ của nhân vật tiểu thuyết hiện đại.

Tiết Bảo Thoa

Bài chi tiết: Tiết Bảo Thoa

Tiết Bảo Thoa là một tính cách gần như đối nghịch với Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc; chính những nhân vật trong Hồng Lâu Mộng đã phát triển trong sự đối nghịch như vậy, làm cho cuốn tiểu thuyết có nhiều gương mặt, nhiều hợp âm. Tiết Bảo Thoa là một nhân vật phụ nữ lí tính. Nàng còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều đúng mực, hợp lí, logic, nàng là hiện thân của nguyên lí đạo đức phong kiến. Bao giờ nàng cũng là một người con gái sống cho gia đình, sống cho ý định người khác - và ý định đó luôn được nàng chấp nhận vì đó cũng chính là của nàng. Sự hòa hợp giữa nàng và gia pháp phong kiến là điều hoàn toàn tự nguyện. Nàng là người có học, xem nhiều sách, biết làm thơ, nhưng lại tâm sự và răn đe Đại Ngọc: "Bọn con gái chúng ta không biết chữ càng tốt... Ngay đến cả việc làm thơ, viết chữ đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải phận sự của bọn con trai nữa. Người con trai đọc sách nhiều phải hiểu nghĩa lí để ra giúp dân trị nước mới đúng...”. Với Bảo Ngọc, một người không yêu nàng, nhưng nàng theo sự sắp đặt của bề trên, lấy Bảo Ngọc không một chút tự ái; nàng làm bổn phận của người vợ, khuyên giải chồng, “lí sự” với chồng: “... chứ bây giờ gặp đến vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn triều đình, cha ông được hưởng biết bao sung sướng...”(tập IV). Nếu nói “bản chất” và “bản lĩnh” giai cấp thì quả nàng là hiện thân của giai cấp. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy xuống giếng tự tử, Vương phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng tươi cười, an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói: “Dì cũng chẳng nên lo lắng buồn bã làm gì, chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ tớ rồi”. Nàng đã bày kế “ve sầu lột xác” để đánh lừa bọn con hầu, tránh điều bất lợi cho mình. Bảo Thoa lúc nào cũng tỉnh táo, cũng lắm mẹo. Nhưng nàng cũng là một nhân vật đáng thương. Nàng ít nhiều cũng yêu Giả Bảo Ngọc mà tự kiềm chế, và cuối cùng, với tất cả sức lực và nghị lực, với tất cả sự chân tình, nàng muốn có hạnh phúc trong cuộc sống phong kiến với Bảo Ngọc, nhưng rốt cuộc nàng cũng trở thành một nhân vật bi kịch. Bi kịch của nàng là bi kịch của một người trung thành với đạo đức phong kiến

Ý nghĩa

Hồng Lâu Mộng là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Trung Quốc trên con đường suy tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm nề nếp không che đậy được thực chất mọt ruỗng của giới thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống xa hoa, dâm ô cố hữu của giai cấp bóc lột và những mối quan hệ tàn nhẫn giữa họ với nhau đã đưa Giả phủ vào con đường tàn tạ không cứu vãn được. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc đời Thanh. Cái cảm giác "cây đổ vượn tan", "chim mỏi về rừng" đã chi phối ngòi bút Tào Tuyết Cần, chứng tỏ ông là nhà văn hiện thực báo hiệu buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến. Với nhãn quan của một người dân chủ, nhà văn còn nhìn thấy những con người mới mang tư tưởng phản truyền thống. Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đứa con "bất hiếu" của gia đình mình, họ chống quan niệm trọng nam khinh nữ truyền thống, chán ghét khoa cử công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do, chống lại khuôn phép ràng buộc. Họ yêu nhau vì phản nghịch, càng phản nghịch họ càng yêu nhau. Đó là hồi âm của cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng dân chủ sơ khai và tư tưởng phong kiến.

Đánh giá

Hồng lâu mộng được xếp vào hàng một trong Tứ đại kì thư Trung Hoa gồm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Tây du kí của Ngô Thừa ÂnThủy Hử của Thi Nại Am, được đánh giá là "tuyệt thế kì thư" (pho sách lạ nhất đời), thật sự phản ánh toàn diện và sâu sắc gương mặt văn hoá Trung Hoa.

Sự truyền bá rộng rãi của cuốn tiểu thuyết này đã dẫn đến việc ra đời một ngành học lấy tên là Hồng học. Giới nghiên cứu tổ chức định kì Hội thảo Hồng lâu mộng có quy mô toàn quốc. Sở nghiên cứu Hồng lâu mộng có tạp chí chuyên san để đăng tải những nghiên cứu về Hồng lâu mộng... Hồng học ngày nay đã trở thành một ngành học vấn ở phạm vi quốc tế. Trên thế giới chỉ có nhà soạn kịch vĩ đại Shakespeare là cũng có vinh dự này.

Hồng Thu Phiên trong Hồng lâu mộng quyết vi nói về bút pháp Hồng lâu mộng:

Hồng lâu mộng lập ý mới, bố cục khéo, từ ngữ đẹp, đầu mối rõ, khởi kết kì, đan cài diệu, miêu tả thật, sắp xếp tài, kể việc thực, nói tình thiết, đặt tên sát, dùng bút kín, cái tài tình thật không kể xiết. Hơn nữa chế giễu thì được cái hậu của nhà thơ, khen chê thì có cái tài của sử bút, kể chuyện ma không cảm thấy hoang đường, tả sự vật không cảm thấy chồng chất, không lời nào tự mâu thuẫn, không việc nào bất trúng nhân tình. Ngoài ra như chúc tết mừng tuổi, mừng thọ lo tang, xem bói bốc thuốc, thách rượu gá bạc, mất của gặp ma, bị cháy gặp cướp, cho đến những việc vặt vãnh gia thường, tư tình nhi nữ, không có chuyện gì mà không ghi đủ. Đến như cầm kì thi họa, y bốc tính mệnh, giải quyết rất tinh, sắp đặt xác đáng. Nhưng đặc biệt tôi cho rằng không có gì tài khéo hơn là thơ từ câu đối hoành phi, lệnh phạt rượu, câu đố đèn, kèm thêm văn từ, điểm diễn hí khúc, không một chỗ nào là không ám hợp với ý chính, nhất bút song quan. Quả là một cuốn sách không tiền tuyệt hậu, độc tuyển trên đời[2]

Lỗ Tấn cũng nhận xét:

Điểm khác biệt của Hồng lâu mộng với các cuốn tiểu thuyết trước đây là dám tả thật không che đậy. Bởi vậy, các nhân vật được miêu tả ở đây đều là những con người thật. Nói chung sau khi Hồng lâu mộng ra đời, cách viết và cách tư duy truyền thống đã hoàn toàn bị phá vỡ...[3]

Thôi Đạo Di cũng nhận xét:

Đối với tôi không có một tác phẩm văn học nào có thể so tài với Hồng lâu mộng về cách sáng tạo câu chuyện và nhân vật chân thật, sống động, bền bỉ... Có thể nói, đọc Hồng lâu mộng không chỉ khiến chúng ta hiểu lịch sử mà còn giúp chúng ta hiểu hiện thực cuộc sống[4]

Nhà Hán học Xô Viết nổi tiếng, viện sĩ N.S.Konrad đánh giá Hồng lâu mộng như sau:

Tiểu thuyết Hồng lâu mộng là một tác phẩm hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu. Đó là một bức tranh vĩ đại về quy mô cũng như về ý nghĩa của cuộc sống xã hội Trung Quốc thế kỉ XVIII[5]

Cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2 thì khẳng định:

Thành tựu to lớn của Hồng lâu mộng trước hết ở tài xây dựng nhân vật, và xây dựng rất nhiều nhân vật cùng một lúc... Những nhân vật đó sống động, có máu thịt, có cá tính rõ nét. Có một số nhân vật nhà văn chỉ phác hoạ sơ qua vài nét nhưng cũng để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Đáng chú ý là, trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần miêu tả nhiều nhất là phụ nữ, mà chủ yếu lại là những thiếu nữ giống nhau hoặc na ná như nhau về độ tuổi, hoàn cảnh sống, cách sống. Rõ ràng điều đó làm cho việc miêu tả gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng Tào Tuyết Cần không những có thể miêu tả được hết sức rõ ràng cá tính của từng người, mà đến cả những tính cách gần giống nhau chỉ khác ở những nét đặc trưng hết sức tinh tế, cũng được ông khắc hoạ rõ ràng tỉ mỉ...[6]

Sức hấp dẫn của tác phẩm làm người ta say mê đến nỗi còn lưu truyền bốn câu thơ:

:Tổ khoát toàn bằng nha phiến yên
Hà phương tác quỷ thả thần tiên
Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng
Độc tận thi thư diệc uổng nhiên

Nghĩa là:

:Thuốc phiện ngào ngạt nơi gác tía,
Ma quỷ, thần tiên có hại chi?
Văn chương không nói Hồng Lâu Mộng
Đọc hết Thi, Thư liệu ích gì?

Vào khoảng tháng 10 năm 1954, từ bức thư của Mao Trạch Đông, một cuộc tranh luận về giá trị cách mạng của những tác phẩm văn học cổ điển đã lan ra khắp đất nước Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã đọc nhiều lần Hồng Lâu Mộng và những công trình nghiên cứu về tác phẩm này. Cuối cùng ông đưa ra một kết luận thật bất ngờ:

Mỗi người nên đọc cuốn tiểu thuyết này 5 lần trước khi muốn đưa ra bất kì một nhận xét gì về nó. Dẫu đã từng được cày nát qua nhiều thế kỉ, cuốn sách với hơn 600 nhân vật độc đáo và đa dạng Hồng Lâu Mộng vẫn là một kho chứa nhiều điều bí ẩn.

Trong những năm gần đây, các cuộc tranh cãi về Hồng Lâu Mộng ngày càng gay gắt hơn, đặc biệt là khi diễn ra cuộc tuyển chọn diễn viên quy mô lớn cho phiên bản mới của bộ phim dựa vào tác phẩm này. Bắt đầu từ tháng 8 năm 2006, cuộc tuyển chọn diễn viên cho ba nhân vật chính Giả Bảo Ngọc, Tiết Bảo Thoa và Lâm Đại Ngọc được tổ chức trên mạng Làn sóng mới, đã thu hút hàng chục ngàn thanh thiếu niên đang sống tại Trung Quốc và nước ngoài tham gia. Chỉ riêng việc tuyển chọn diễn viên quy mô lớn và rầm rộ suốt một năm qua khiến bộ phim truyền hình Hồng Lâu Mộng chưa quay đã “sốt” và cũng đã trở thành một hiện tượng độc nhất vô nhị nữa. Các diễn viên tham gia tuyển chọn không chỉ trên quy mô toàn đất nước Trung Quốc với hơn 1,3 tỷ người mà còn đến từ nhiều quốc gia châu Á khác như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Malaysia....

Chuyển thể

Hơn 200 năm nay, Hồng Lâu mộng là đề tài hấp dẫn vô cùng vô tận của sân khấu và điện ảnh, hơn 20 lần chuyển thể thành phim điện ảnh và truyền hình, trong đó hoàn chỉnh nhất có:

[sửa] Chú thích

  1. ^ Cô gái trẻ viết tiếp Hồng lâu mộng
  2. ^ Lời giới thiệu Hồng lâu mộng của Phan Văn Các, tháng 9 - 1995
  3. ^ Phan Thanh Anh, 60 cuốn sách nên đọc, NXB Hà Nội, tr130
  4. ^ Phan Thanh Anh, 60 cuốn sách nên đọc, NXB Hà Nội, tr131
  5. ^ Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ, Văn học Trung Quốc, tập 2, NXB Giáo dục, tr126
  6. ^ Nhiều tác giả, Lịch sử Văn học Trung Quốc, tập 2, NXB Giáo dục, tr676

Xem thêm

Tham khảo

  • Mai Quốc Liên: Lời giới thiệu, Hồng lâu mộng Tập 1. Nhà xuất bản Văn học. Hà Nội 2007 (nhóm dịch Vũ Bội Hoàng)
  • Bùi Kỷ: Lời giới thiệu, Hồng lâu mộng Tập 1. Nhà xuất bản Văn hóa. Hà Nội, 1962
  • Lịch sử văn học Trung Quốc (Nguyên - Minh - Thanh). Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện Khoa học Trung Quốc, Bắc Kinh, 1962. Bản dịch : Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964.
  • Tào Tuyết Cần dữ Hồng Lâu Mộng. Hồng lâu mộng, quyển thượng. Thế giới thư cục, Singapore, 1973.