Đọc lướt xong bức thư sau cùng, tôi lơ đãng bóc  một bức thư mà người thư ký của  tôi để nguyên chưa mở. Có lẽ cô ấy nghĩ  đây là thư riêng nên để nguyên niêm. Không biết  đầu óc để ở đâu, tôi  quên không coi địa chỉ người gởi, vì thế nội dung bức thư làm tôi giật   mình.
    "Vì chúng tôi không tìm thấy người bà con nào, trong khi dường  như ông là người  liên lạc thư từ và là khách thăm duy nhất của bà ấy  nên chúng tôi xin báo cho ông biết là  bà Miriam Winters đã qua đời. Bà  ấy chết thanh thản trong giấc ngủ vào ngày 25 vừa  qua". Ánh nắng đang  chiếu qua mành cửa sổ văn phòng tôi bỗng trở nên lạnh lẽo. Tôi  đang  đứng khi mở bức thư, bây giờ, tôi đã ngồi xuống, xoay cái ghế bọc da một  vòng,  nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Thế là, sau cùng, bà ấy đã chết. "Khách  thăm duy nhất". Lạy  Chúa, không hẳn thế ! Lần sau cùng gặp bà ấy là khi  nào nhỉ? Năm năm? Sáu năm? Tôi  nhớ có nhận được một thiệp mừng Giáng  sinh và bà ấy cứ nhắc đi nhắc lại là tôi phải viết  thư cho bà ấy. Bà ấy  cô đơn, cô đơn ghê gớm vào những năm cuối cùng trong đời, ắt hẳn  thế.  Lòng tôi bỗng tràn ngập một nỗi ân hận, thứ cảm giác mà bạn thấy khi một  người đã  chết mà chưa thu xếp xong những việc còn dang dở.
    Tôi chỉ là một thằng nhóc mười sáu tuổi khi họ thả ông Winters  và vì thế, tôi có  trách nhiệm về việc giải cứu ông ta. Tôi đi lăng  quăng mùa thu năm đó, vênh váo như một  anh hùng đáng nguyền rủa. Tôi  không ý thức được sự lố bịch của mình cho đến sau này.  Tôi không trở  lại Wilton Falls nhiều năm qua và tôi không biết họ có còn kể cho con  cháu  họ nghe chuyện xảy ra mùa thu năm ấy hay không. Tôi không biết họ  vẫn cứ kể lại câu  chuyện theo cách đó - tạo ra một huyền thoại Miriam -  mụ phù thủy? Vâng, họ lầm. Bà  ấy không phải là phù thủy. Tôi đã được  nghe bà ấy kể lại hết.
    Xoay cái ghế bọc lại bàn giấy, tôi nhìn bức thư một lần nữa.  Thật kỳ lạ ! Nhưng có  thể tôi là người còn sống duy nhất đã nghe tất cả  câu chuyện kể lại bởi chính bà ấy. Chắc  chắn báo chí không cho bà ấy  có cái quyền đó. Chắc chắn báo chí không bao giờ cho bà  ấy có được dịp  kể lại tất cả sự việc. Họ quá mê mải viết những bài giật gân về sự khủng   khiếp bà ấy đã gây ra.
    Quả thật, đó là một chuyện khủng khiếp.
    Tôi không bao giờ chối bỏ điều đó. Tôi cũng không tha thứ việc  bà ấy đã làm.  Nhưng định mệnh đã đưa vào tay tôi trọn vẹn tấn bi kịch  mà không ai có được. Vì thế, tôi  luôn luôn nghĩ khác về Miriam Winters.
Miriam ngừng lại để lau mồ hôi trên trán nàng. Chỉ  còn hai cái áo sơ mi chưa ủi.  Harry sẽ về nhà tối nay và hắn sẽ hỏi  chúng trước tiên. Hắn ta có rất nhiều áo sơ mi đủ để  thay trong một  tháng xa nhà trong khi ở nhà hắn cũng còn ngần ấy áo cho Miriam giặt ủi.   Một người bán hàng phải ăn mặc chải chuốt, Harry luôn nói thế. Mà hình  như hắn thay áo  nhiều hơn cần thiết. Sau lần sai lầm ngớ ngẩn đầu  tiên, nàng không bao giờ nhắc lại  chuyện đó khi thấy vết son môi, vết  phấn vấy bẩn trên áo hắn.
    Nàng nhìn đồng hồ phía trên lavabo một cách sợ hãi. Tại sao nàng  phải để đến giờ  chót ? ồ, vì tháng này nhiều chuyện quá. Bobby ốm rồi  đến lượt nàng, nàng bị chứng nhức  đầu ghê gớm hành hạ liên miên. Từ khi  Harry đánh nàng té vào lò bếp thì nàng bị chứng  nhức đầu đó và một thứ  cảm giác kỳ lạ chiếm ngự trí não nàng luôn luôn. Nàng đặt bàn ủi   xuống, lấy tay day day trán. Nàng không sợ nhức đầu lắm nhưng cái cảm  giác kỳ cục kia ... nàng tự hỏi không biết có phải mình bị mất trí nhớ  từng lúc hay không. Nàng mong  rằng chuyện đó không có. Bobby tuy còn bé  nhưng đã có thể tự lo cho mình ăn uống, tắm  rửa ... nhưng nó sẽ làm gì  được một khi mẹ nó bị mất trí nhớ một ngày nào đó ?
    May thay, nàng vừa ủi xong cái áo cuối cùng thì xe hơi của Harry  lái vào bãi cỏ sau nhà.  Hắn tông cửa bước vào. Hắn lớn hơn Miriam hai  mươi tuổi, to con.Hắn đặt túi hành lý xuống đất không đáp lại lời chào  "... Hello!" run rẩy của Miriam. Hắn quay ra rồi trở vào  với hai túi  giấy mà hắn cẩn thận đặt trên bàn làm bếp. Tim Miriam chùng xuống. Thế  có  nghĩa là hắn không vui rồi. Nàng luôn luôn biết điều đó bởi những  chai rượu hắn đem về  để uống trong vài ngày nghỉ ngắn ngủi ở nhà trước  khi lên đường.
    - Em chuẩn bị bữa ăn cho anh rồi đấy!
    Vừa nói, Miriam vừa chỉ vào bếp.
    Đang lúi húi mở những nắp chai rượu, Harry dừng lại liếc nhìn nàng rồi lại cắm  cúi vào những chai rượu.
    - áo của tôi xong chưa ?  - Vâng ... xong cả rồi ... tất cả. Anh  ngồi vào bàn đi, em dọn cho anh ăn.  Hắn lầm bầm trong miệng rồi ngồi  vào bàn.
    Hai giờ sau, hắn đã say mèm.
    Hắn không cho nàng đi ngủ.
    Tuy nàng tránh được những cái vồ của hắn trong cơn say bí tỉ  nhưng sau cùng hắn  cũng dồn được nàng vào góc nhà. Hơi thở hắn nồng nặc  mùi rượu. Bàn tay hắn lần mò  trên thân thể nàng khiến nàng buồn nôn.
    - Đừng ... đừng ... Harry ...
    Giọng nàng vô tình cất cao trong hơi thở gấp.  Có những bàn tay  khác chụp lấy tay nàng. Đó là Bobby. Giật mình vì tiếng kêu  của nàng,  nó vừa khóc vừa chạy vào bếp.
    - Mẹ ơi ! Mẹ ơi !
    Nó la lên, cố kéo nàng thoát khỏi tay gã đàn ông đang say. Miriam nuốt nước mắt,  cố gắng nói bằng giọng ôn hòa :
    - Con phải trở lại phòng và ngủ đi, Bobby ... nào ... để mẹ đưa con đi ngủ ...  Nhưng Harry ôm chặt nàng :
    - Cô không được đi đâu cả ... dẹp cái trò làm mẹ bẩn thỉu đó đi  một lát đã ... khi  một người đàn ông đi xa về thì hắn cần giải trí ...  giải trí kiểu vợ chồng ...
    Hắn quay sang đứa bé. Nó vẫn bám chặt mẹ nó.
     - Cút ngay ! Đồ khốn nạn ! Đi ngủ !
    Nhưng thằng bé khốn khổ không nghe hắn.
    Nhanh như chớp, hắn vung bàn tay hộ pháp.
    Thân hình thằng bé hình như bay trong không khí. Đúng, nó bay  trong không khí  trước khi nằm một đống dưới lavabo. Một vết tét ngay  trên trán thằng bé, máu xịt ra có  vòi rồi tuôn xối xả thành dòng đầy  mặt nó. Miệng nó mấp máy nhưng không phát ra tiếng  nào.
    Ngay cả Harry cũng bàng hoàng trước cảnh tượng đó. Hắn không  ngăn cản  Miriam khi nàng vùng khỏi tay hắn cùng với tiếng thét hãi  hùng. Thằng bé vẫn thở. Tiếng  khóc thảm thiết của nó hòa lẫn tiếng khóc  đau lòng của mẹ nó. Nàng ôm nó vào lòng, dỗ  dành. Nàng thấm mặt nó  bằng một cái khăn ướt. Chẳng hi vọng gì ở sự giúp đỡ bên ngoài  vào lúc  nguy cấp này vì nhà không có điện thoại mà Harry thì quá say không thể  lái xe  được. Căn nhà lại ở một nơi biệt lập, nằm ngay rìa một cánh đồng  cỏ. Bên kia cánh đồng  cỏ là một khu rừng nhỏ. Người láng giềng gần  nhất thì ở cách đây hai cây số.
    Sau cùng, tạ ơn Trời, dòng máu yếu dần rồi ngừng hẳn. Miriam nhẹ  nhàng lau  sạch máu trên mặt con trai nàng. Vết tét khá dài và nàng  kinh hoảng khi thấy vết đứt gần  sát bên một con mắt. Sáng mai nàng sẽ  mời bác sĩ, còn bây giờ thì cho nó đi ngủ có lẽ là  giải pháp hay nhất.  Nàng bế thằng bé lên, đi ngang qua Harry. Hắn đã ngồi lại bàn, uống   tiếp. Nàng băng cho nó vụng về rồi đặt thằng bé vẫn còn thút thít khóc  lên giường. Nó không cho nàng đi nên nàng ngồi lại với nó cho đến khi  tiếng nức nở lịm dần và thằng bé  mau chóng rơi vào giấc ngủ say.
    Nàng nhẹ nhàng trở lại nhà bếp. Đầu hắn gối trên hai cánh tay  khoanh lại đặt trên  bàn. Miriam lay hắn, hắn không nhúc nhích. Nàng đến  bên bàn để dao, mở ngăn kéo,  chọn một con dao lớn nhất, sắc nhất. Đóng  ngăn kéo lại, nàng đến cạnh chồng. Giơ cao  con dao, cân nhắc, đắn đo  ... đâm hay chém ?
    Cách nào hay nhất đây ?
    Thật kỳ lạ ! Vận mạng nàng trên cõi đời này cho đến giờ phút này  là của người  đàn ông đang gục trên bàn. Nàng đã lầm lỡ với hắn. Nàng  ghét hắn nhưng không biết làm  thế nào để thoát khỏi tay hắn. Đó là  nguyên nhân của một cái gì đó lạ lùng thình lình xui  khiến nàng cho  nàng biết nên làm cái gì. Nàng không kinh ngạc chút nào về sự quả quyết   của mình, nàng cũng không muốn hỏi ý kiến ai. Harry phải chết, vậy  thôi. Nàng biết chắc  thế.
    Cái gì trong tay nàng vậy ?
    Một đoạn văn lạ lùng từ thuở thơ ấu ở trường học "Bạn đừng giết  người nhé!" Phải  chăng đó là sự nhận thức về cái khó là làm thế nào để  thủ tiêu xác chết ? Có lẽ. Nhưng  đúng hơn, có thể đó là ý nghĩ thình  lình xẹt qua trong trí nàng, ý nghĩ rằng chính nàng  đứng trước vành  móng ngựa và Bobby cô đơn. Những kẻ sát nhân luôn luôn bị bắt mà !  Nàng  chẳng có kế hoạch gì để che giấu "tội ác" của nàng. Nàng cũng chẳng có  chút hi  vọng nào là nàng sẽ qua mặt được nhà chức trách, nếu nàng giết  người. Nàng không có  được sự khôn ngoan đó, vậy thôi.
    Chậm chạp, nàng hạ con dao xuống.
    Có lẽ nàng không thể giết Harry, nhưng hắn phải bị kềm chế bằng  cách nào đó  chứ. Những gì vừa xảy ra tối nay ... Miriam rùng mình khi  nhớ lại khuôn mặt máu me của  con. Không, con thú man rợ phải bị giết  hay nhốt lại ...
    Nhốt lại ? Nàng suy nghĩ trong một thoáng. Phải rồi. Đó là câu  trả lời. Căn nhà có  những khoảnh đất rộng có hàng rào Harry đã mua gần  một năm nay của những người  chăn nuôi. Thật sự, họ là những người nuôi  chó. Trong hầm ngầm dưới lòng đất họ đã xây  một khoảng để tránh những  cơn lốc mạnh. Chỗ đó hình vuông, mỗi cạnh gần ba mét, có  rào chắn phía  trên. Cái "chuồng" này cũng dùng cho việc sinh sản của những con chó  cái.  Harry mà ở trong cái "chuồng" đó thì hắn không bao giờ có thể hành  hạ mẹ con nàng nữa.
    Nàng nhìn đăm đăm Harry. Có lẽ nàng sẽ vô cùng ngạc nhiên khi  nghĩ rằng nàng  có thể kéo được thân xác nặng nề của hắn ra khỏi nhà bếp  này, xuống hầm, đưa vào  chuồng. Nhưng giờ đây, nàng chỉ nghĩ rằng nàng  phải làm việc đó.
    Harry khẽ cựa mình một hai lần trong "cuộc hành trình gian khổ"  đó. Tuy thế, hắn không  tỉnh lại nổi trong cơn say chết người này của  hắn. Khi đưa được người chồng say mèm  vào trong cái chuồng đó, người  nàng ướt đẫm mồ hôi. Trong chuồng có một tấm ván lát  sàn, nên sàn  chuồng cao hơn sàn nhà vài phân. Rõ ràng đã có những con chó ở đây.   Miriam lên lầu lấy hai cái mền rồi trở xuống ném chúng trên sàn gỗ. Nàng  đóng cửa  chuồng lại. Có một ổ khóa lớn móc ở then cửa. Nàng bấm ổ  khóa. Nàng không có chìa  của nó mà cũng chẳng cần vì nàng không định mở  nó ra nữa, mãi mãi ...
    Vài ngày đầu sẽ là những ngày ồn ào ghê gớm, dĩ nhiên. May mắn  là căn nhà quá  biệt lập nên tiếng gào thét phẫn nộ của Harry sẽ không  ai nghe. Miriam đưa Bobby đến  bác sĩ sáng hôm sau. Người bác sĩ kinh  ngạc hỏi tại sao nàng không đưa nó đến ngay sau  khi vừa xảy ra chuyện.  Ông ta còn hỏi tại sao nó bị như thế.
    - Nó té, đầu đập vào ống nước dưới lavabo tối qua. Tôi không thể bế nó đi bộ đến  đây giữa đêm khuya. Chồng tôi vắng nhà.
    Miriam nói dối, tin rằng Bobby sẽ không bác bỏ câu chuyện của  nàng. Thằng bé  không nói gì. Nó là một đứa bé ngoan ngoãn, điềm tĩnh,  có vẻ lớn trước tuổi.
    Khi hai người trở về nhà, họ nghe tiếng hét của Harry trong cơn  giận cuồng điên. Bobby  nép sát vào mẹ nó. Miriam ngồi xuống một cái ghế  gần cửa rồi bế nó lên lòng.
    - Nghe đây con trai, chẳng có gì phải sợ hãi tiếng hét đó ... nó  chỉ là ...  Nàng ngưng một chút, một ý nghĩ chợt nảy trong đầu.
    - Con có nhớ những chuyện cổ tích mẹ con mình đọc tối hôm kia không ?
     - Nhớ ...
    - Con có nhớ chàng hoàng tử bị biến thành con ếch không ?
    - Nhớ ...
    - Tốt, cha con cũng thế. Ông ấy bị biến thành một con gấu, một  con gấu to xấu xí.  Mẹ cho rằng đó là vì ăn ở ác độc nên bị trừng phạt.  Bây giờ ông ấy đang ở dưới hầm nên  ông ấy không thể làm hại mẹ con mình  nữa.
    Mắt Bobby tròn xoe.
    Một tiếng thét ghê hồn từ dưới hầm vọng lên ngay lúc đó làm thằng bé run rẩy. Nó  lắp bắp.
    - Ông ấy ... ông ấy ... không thể ra ...  - Không. - Miriam đáp,  giọng tin chắc - Chắc chắn không thể ra được, chỉ vài  ngày thôi, ông  ấy sẽ không la hét nữa.
    Nàng đặt thằng bé xuống đất và đứng dậy. Nàng nói :  - Này  Bobby, con không được kể cho BấT Cứ AI về những chuyện này nghe chưa  ?  Nếu con kể, họ sẽ thả ông ấy ra đấy.
    Mắt thằng bé mở to, chứa đầy sự khủng khiếp. Miriam vuốt lại  quần áo, vẻ mãn nguyện.  Vậy là thằng bé sẽ không bao giờ kể cho ai.
 Ba hôm sau, Miriam mới xuống đó. Hắn đang nằm.
    Hắn có vẻ kiệt lực sau ba ngày la hét, đói khát. Thế nhưng vừa  trông thấy nàng,  hắn chồm lên. Những ngón tay run rẩy bấu lấy tấm lưới  sắt chắc chắn của cái chuồng.  Miriam dừng lại vài bước trước cái  chuồng, đặt xuống đất một cái dĩa, một tô sữa. Nàng  lấy một cái chổi  gần đấy, đẩy dĩa thức ăn và tô sữa vào trong buồng.
    Harry liếm môi :  - Tốt, tốt ... thế nào ... chuyện này là thế  nào đây ?  Nàng không trả lời, tiếp tục đẩy những thứ đó vào chuồng.   Giọng Harry vang lên dễ sợ :
    - Đồ khốn nạn ! Miriam ! Thả tao ra ! Miriam, mày có nghe tao nói không ?  Giọng hắn trở nên lưỡng lự ở những chữ sau cùng.
    Thái độ thản nhiên của nàng khiến hắn lo lắng. Có phải đấy là  người đàn bà hắn  đã từng ngược đãi, vùi dập không ? Có phải đấy là  người đàn bà trước đây vẫn ngoan  ngoãn phục tùng hắn không ? Hắn thử  lần nữa :
    - Nghe đây, Miriam ... anh cho phép em được ăn thịt bò đấy ...  à, anh quá say lúc  đó nhưng em không thể nhốt anh mãi mãi như vậy, phải  không ?
    Bấy giờ nàng mới trả lời hắn.
    Nàng đứng thẳng lên. Đôi mắt xanh biếc của nàng nhìn thẳng vào mắt hắn mà  không hề run rẩy.
    - Vâng.
    Hắn kinh ngạc :
    - Cái ... cái gì ?
    Nàng lặp lại :
    - Vâng, em có thể nhốt anh ở đây mãi mãi. Em có thể và em phải làm thế.  Nàng chỉ những thức ăn trên sàn.
    - Anh ăn đi, tối mai em sẽ đem cho anh nhiều hơn.
    Nàng quay đi, trở lên nhà.
    Hắn sững sờ một lúc rồi la lên, không phải là tiếng kêu thét giận dữ cuồng điên  nữa.
    - Người ta sẽ biết ! Cô không hiểu điều đó sao ? Đồ ngu ! Cô không thể thoát được  ! Cô sẽ bị bắt !
    Thiếu phụ tiếp tục bước lên những bậc thang như thể không nghe  thấy gì. Đến đầu  cầu thang, nàng tắt đèn, ngọn đèn duy nhất của căn  hầm. Cẩn thận, lặng lẽ, nàng đóng cửa  lại.
    Mỗi tối nàng đều đem thức ăn cho hắn. ít khi nàng nói trước, mặc  cho tiếng hét  điên cuồng của hắn, tiếng chửi rủa man dại của hắn vang  vọng khắp tầng hầm, nàng  không nói một lời nào. Khi mùi hôi thối trong  chuồng không chịu nổi nữa thì nàng làm  như những người chủ trước vẫn  làm. Nàng nối một ống cao su vào vòi của thùng rượu bỏ  không gần đó,  xịt nước vào sàn chuồng. Nước và những thứ bẩn thỉu trôi ra một cái rãnh   nhỏ ngay cửa chuồng, trôi tiếp ra ống dẫn xuống cống. Nàng giữ vệ sinh  cho cái chuồng  bằng cách thỉnh thoảng rắc bột tẩy thơm. Nhiều lần  trong tuần, nàng đẩy vào cho hắn một  chậu nước và xà bông để hắn tắm  rửa.
    Nhiều tuần trôi qua, Harry bớt chửi rủa, đe dọa.
    Hắn nghĩ những mẹo khác. Hắn nói với nàng đây chỉ là vấn đề thời  gian. Công ty  của hắn sẽ biết. Hơn nữa, nàng có thể nhốt hắn như vậy  mãi ư ? Làm sao nàng sống ?  Nàng kiếm tiền bằng cách nào ? Những câu  hỏi của hắn không làm nàng lo lắng. Vậy có  nghĩa là nàng đã nghĩ đến  những vấn đề ấy rồi.
    Thật vậy, Miriam đã điện thoại cho công ty của Harry. Nàng xin  lỗi họ là chồng  nàng đã nhận được việc khác và mong họ bỏ lỗi vì nghỉ  không báo trước. Harry không  phải là nhân viên giỏi giang gì cho lắm  nên họ chẳng cần. Họ yêu cầu hắn gởi trả cho  công ty những mẫu hàng và  sổ ghi hàng, họ chúc hắn may mắn. Miriam gởi những thứ đó  qua bưu điện.  Thế là, cả cái công ty nọ, nơi mà gã đàn ông đang trong chuồng hi vọng  là  sẽ làm rùm beng về sự biến mất của hắn đã lặng lẽ cho hắn vào quên  lãng.
    Những tuần lễ sau khi giam Harry trong chuồng là những ngày nhàn  hạ của hai  mẹ con Miriam. Họ thường đến những khu vườn gần đó để hái  dâu rừng. Chưa bao giờ  Miriam lại hạnh phúc như thế. Tuổi thơ của nàng  là một chuỗi ngày dài của những thống  khổ tiếp nối. Cuộc hôn nhân của  nàng với Harry mà nàng cho là sự giải thoát chỉ là sự  chuyển đổi nàng  sang tay một con quái vật mới, ghê gớm hơn cha nàng. Giờ đây, nàng đã   tự do, lần đầu tiên trong đời, nàng được hưởng tự do. Giờ đây, chứng  nhức đầu lẫn cảm  giác kỳ lạ đó đã bớt hành hạ nàng. Vào mùa thu này,  Bobby sẽ đi học và nàng sẽ tính  chuyện tương lai. Những lời Harry nói  về khả năng xoay xở để kiếm sống của nàng, nàng  vẫn nhớ. Nhưng hiện  giờ, với số tiền đã dành dụm được, nàng chẳng lo lắng gì cho đến  mùa  thu.
    Mùa thu đến, nàng cũng chẳng phải lo lắng gì vì mọi sự tốt đẹp  đã chờ đợi nàng.  Bà Jenkins, người quản lý thư viện của tỉnh qua đời.  Vốn là người yêu sách, nàng xin  nhận việc đó. Cũng có vài người xin làm  và Miriam tuy là dân mới đến nhưng lại là người  duyên dáng, đáng yêu,  tính tình trầm lặng, ngăn nắp, có đầu óc khoa học ... Trong đơn xin   việc, nàng cho biết bị chồng bỏ, có lẽ vì lý do đó, vì thương hại nàng,  họ chọn nàng.  Lương của nàng cũng chẳng được bao nhiêu, nhưng ước muốn  của nàng cũng không nhiều : chỉ đủ để nuôi Bobby, nàng và "con gấu" kia.  Sự tưởng tượng của nàng bỗng hóa  thành sự thật. Vì Harry đã biến dạng  gần như gấu. Nhiều lần, khó khăn lắm nàng mới  nhận ra sinh vật râu tóc  xồm xoàm trong chuồng là chồng nàng. Hắn thật sự là một con  gấu cho ăn  vào ban đêm, ban ngày bị bỏ mặc ở đó.
    Nhưng nếu cứ bỏ mặc hắn như thế trong những tháng mùa đông thì  thật không ổn  vì hắn đã thay đổi nhiều. Hắn thường nắm những mắt lưới  cửa chuồng lắc dữ dội, thường  khua những cái dĩa sắt ầm ĩ, thường kêu  gào ghê rợn. Một đêm nọ, khi đem đồ ăn xuống  cho hắn, nàng thấy hắn  đang bám lấy những mắt lưới, run rẩy. Hắn nhìn nàng. Một giọt  nước mắt  lăn trên má hắn, đọng trên bộ râu gớm ghiếc của hắn. Rồi những giọt nước  mắt  nối tiếp nhau rơi.
    Con gấu đang khóc !  - Miriam ! Miriam !
    Nó nức nở. Thật lạ lùng ! Gấu mà biết tên nàng ! Ngay sau đó nàng nhớ đó là  Harry trong lốt gấu.
    - Miriam ... làm ơn ... làm ơn thả anh ra ... anh đã hiểu anh  đối xử không phải với  em ... anh hứa anh sẽ ra đi ... không bao giờ làm  em buồn nữa ... thả anh ra đi ...
    Mắt Miriam long lanh ngấn lệ. Nàng là người đa cảm. Trong nàng  dấy lên một niềm  thương cảm vô bờ đối với sinh vật trong chuồng. Thật  khẽ khàng, nàng đặt những dĩa thức  ăn xuống sàn.
    - Em xin lỗi.
    Nàng nói nhẹ nhàng trước khi trở lên.  Đêm đó, nàng không ngủ được.
    Nàng thấy cuộc đời nàng, thế giới nàng đang sống mới buồn làm  sao ! Nàng  thương con gấu khốn khổ đó quá. Phải chi nàng làm được cái  gì đó để xoa dịu nó, nhưng  làm gì bây giờ ? Rất nhiều lần sau này, nàng  đã nghĩ đến điều đó mỗi khi thấy thương xót  con gấu, nhưng nàng vẫn  không biết làm sao ...
 Bobby đã lớn. Nó hiểu mà không cần hỏi, rằng nó  không bao giờ được đưa bạn về  nhà. Nếu làm thế, chẳng bao lâu bạn bè nó  sẽ biết và người trong tỉnh sẽ hiểu rằng người  quản lý thư viện duyên  dáng kia cùng với đứa con trai đang sống một cuộc sống quái đản,  khi đó  chẳng ai dám gần gũi nữa.
    Chắc chắn sự tin tưởng về câu chuyện người cha hóa gấu sẽ chẳng  tồn tại lâu trong  đầu Bobby nữa. Phải có một ngày nó tò mò, nó sẽ nhìn  vào nắp hầm trên mặt đất ngoài  vườn. Khi còn bé, nó có thể bị đánh lừa  bởi hình dáng dị hợm đó, cứ nghĩ chắc đó là một  con gấu thật.
    Ngay cả mẹ nó cũng nghĩ thế mà !
    Nhưng khi đã lớn, đã biết nghĩ, nó sẽ hiểu hết. Nó sẽ làm gì ?  Báo cảnh sát? Để có  lại người cha mà nó chỉ nhớ mơ hồ là một người nhẫn  tâm, tàn ác ? Khi đó, mẹ nó sẽ ra  sao ? Đi tù ... hay vào nhà thương  điên? Không, không! Nó không biết cái gì trong hầm.  Không thể và cũng  KHÔNG CHịU NổI Sự THậT ...
    Thời gian chậm chạp trôi qua với con gấu.
    Nhưng năm tháng trôi nhanh đối với mẹ con Bobby rất nhiều. Tiểu học, trung học, ... chiến tranh!  Đệ NHị THế CHIếN !
    Hitler đã tiến quân qua Tiệp Khắc, Ba Lan ... và Trân Châu Cảng.  Bobby đăng lính  hải quân. Nó hôn lên khuôn mặt đầm đìa nước mắt của mẹ  nó, trấn an nàng. Nó nói chiến tranh sẽ qua mau thôi, cho mẹ nó an  lòng. Nhưng mẹ nó không an lòng. Nguồn sống của  nàng đang rời bỏ nàng.
    Miriam cho con gấu biết chuyện tối hôm đó.
    Những năm sau này nàng có thói quen ngồi bên ngoài chuồng, trên  một cái ghế đu vào  những buổi chiều tối. Những lúc đó Bobby đi chơi  bóng rổ hay đi dự sinh hoạt ở trường.  Nàng thích nói chuyện với con  gấu. Bây giờ nó đã biết rằng không nên nói gì về chuyện  tự do của nó  nữa. Thay vào đó, nó im lặng nghe nàng kể những chuyện ở thế giới bên   ngoài, về những thành tích thể thao của Bobby, những chuyện xảy ra ở thư  viện ...
    Những ngày ấy thật êm đềm !
    Miriam đặt một ngọn đèn ngay cạnh ghế đu để thỉnh thoảng nàng  đọc sách cho  con gấu nghe. Con gấu có vẻ thích thú. Tối nay, khi nàng  cho nó biết Bobby đã đi, hình  như nó lộ vẻ buồn rầu. Nó bỗng nói :
    - Miriam...
    Gịong nó khàn khàn.  - Thả ... thả anh ra đi ... cho anh được  săn sóc em khi Bobby không còn ở nhà.  Nàng nhìn hắn, kinh ngạc. Bao  nhiêu thời gian trôi qua rồi mà Nó vẫn không hiểu,  vẫn còn mơ tưởng !
    Vẻ buồn bã, nàng đứng dậy, tắt đèn và đi lên. Đến đầu cầu thang,  nàng đóng cửa  nhẹ nhàng nhưng kiên quyết trước lời van xin của nó. Sau  thời gian dài như vậy mà nó vẫn  không hiểu là người ta không bao giờ  để những con thú hoang được thả rông. Chẳng có gì  phải lo lắng, âu sầu  cho những con cọp, sư tử trong sở thú. Cũng chẳng có gì phải nghĩ  ngợi  về vẻ hiền lành, thuần hóa của chúng. Chỉ có điều là không được cho  chúng tự do.
    Không lâu sau đó thì có thư của Bobby. Nàng đọc cho con gấu nghe  (Nó đã học  được bài học mới sau lần sai phạm đó và biết cách ngoan  ngoãn, vâng lời hơn bao giờ).
    Và không bao lâu, Bobby được về phép lần đầu. Da rám nắng, khỏe  mạnh, cường  tráng, trông thật thích mắt. Miriam ước sao con gấu trông  thấy nó.
    Tận dụng những ngày phép ngắn ngủi, Bobby sửa sang nhà cửa. Chỉ  còn một hôm nữa  thôi. Nó đứng nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ nhà bếp.  Miriam đến cạnh nó và nó nhìn  nàng, vẻ mặt đăm chiêu.
    - Mẹ à, con thấy bọn nhóc chạy chơi trong vườn nhà mình hôm qua đấy. Hàng rào  có lẽ hư hết rồi.
    Miriam gật đầu :  - ừ, nó cũ quá rồi.
    Bobby đứng dậy, nhíu mày :  - Con không thích thế, con không  muốn tụi nó tới đây phá phách. Để con lên tỉnh  mua ít gỗ và dây thép  gai ... Nó làm việc suốt ngày hôm đó. Luôn ngày hôm sau, cho đến khi sắp  tới giờ lên đường.  Mồ hôi đầm đìa nhưng vẻ mặt mãn nguyện.
    - Con có gắn những tấm bảng "Cấm vượt qua" ở quanh vườn. Hàng  rào giờ thì  chắc chắn lắm mẹ ạ. Cứ để tụi nhóc leo qua hàng thép gai đó  coi !
    Nó đặt tay lên vai mẹ nó :  - Mẹ, chẳng bao lâu nữa con sẽ về ...
    Nhưng nó không bao giờ trở về. Nàng đang ở thư viện thì điện tín  tới. Mọi người  đều thương nàng. Nhiều người xin đưa nàng về nhưng nàng  từ chối tất cả. Nàng muốn đi  bộ một mình trên con đường quen thuộc.  Nàng cũng không lộ vẻ gì cho tới khi đến trước  chuồng gấu. Lúc đó, nàng  mới quỵ xuống sàn xi măng lạnh lẽo. Nàng khóc như mưa,  khóc thỏa thuê  cho nguôi nỗi đau.
    - Bobby chết rồi ... nghe không, gấu ? Bobby ... chết rồi!
    Qua hàng rào lưới sắt, những ngón tay móng dài từ lâu không cắt  thò ra như muốn  đánh nàng. Những giọt nước mắt lăn dài trên bộ râu rậm.  Con gấu nhỏ lệ cho nỗi đau mất con hay cho sự thù hận cuộc đời ? Nào ai  biết ?  Đời sống vẫn tiếp tục trôi.
    Nỗi đau nguôi ngoai dần trong lòng Miriam.
    Nàng tiếp tục công việc ở thư viện. Có Bobby hay không, nàng vẫn  phải nuôi lấy  nàng và con gấu. Tiền tử của Bobby nàng để nguyên không  đụng đến. Một ngày nào đó,  khi không làm việc nữa, nàng sẽ cần đến nó.
    Cuộc sống trong căn nhà đó đều đặn trôi qua theo thời khóa biểu  không thay đổi. Con gấu  đã hoàn toàn đáng tin. Vào những ngày cuối tuần  đẹp trời, Miriam đã dám mở cánh cửa  phía trên hầm, tức là cái nắp trên  mặt đất ở ngoài vườn, cho con gấu được hưởng khí trời  trong lành. Và  nàng sung sướng khi thấy nó đứng bật dậy, lại ngay dưới cửa sổ, hít  những  hơi dài của không khí ngoài bầu trời tự do. Đôi lúc nó với tay  nhảy lên nhưng vô ích vì ô  cửa khá cao lại còn một tấm lưới sắt chắc  chắn như tấm lưới cửa chuồng. Đôi lúc nó nhón  chân, cố rướn cổ nhìn ra  ngoài nhưng vô vọng. Nàng thường đem cho nó những bó hoa  rừng. Nó thích  lắm, vùi đầu vào bó hoa hít lấy hít để. Nàng vui thú làm những việc đại   loại như thế vì nàng thật sự đã thích nó. Càng ngày, sự tồn tại của  nàng trên cõi đời này  càng là nguồn an ủi lẫn sự sống còn của nó.
    Năm tháng tiếp tục lặng lẽ trôi qua.
 Dĩ nhiên, cũng có những lúc khó khăn, chẳng hạn  như những lúc con gấu ốm  nặng. Thật là một cực hình cho Miriam khi nó  kêu gào đòi mời bác sĩ. Rồi nó hiểu rằng  chuyện đó không thể có được.  Nàng không biết làm gì ngoài việc cầu nguyện. Thế mà lời  cầu nguyện của  nàng được đáp lại. Con gấu hạ cơn sốt, không rên rỉ nữa, rồi đỡ dần.  Lại  có những lúc chính nàng ốm. Vào một mùa thu nọ, nàng ngã bệnh trong  những ngày  phép. Nàng ốm nặng đến nỗi không thể tự đến bác sĩ được.  Cũng không có cách nào gọi  bác sĩ đến nhà. Mà có gọi cũng không được dù  nàng là chủ nhà nhưng lại là người giữ con  gấu trong chuồng. Hình như  nàng cũng đang bị giam cầm trong một loại ngục tù. Cơn sốt  dữ dội hành  hạ nàng nhiều ngày. Cái duy nhất giúp nàng không gục ngã là tiếng kêu   thống thiết của con gấu. Bỏ mặc cho nó chết thì dễ quá .. nhưng nàng  không thể ... con  gấu đói ... nó cần có nàng...
    Vì thế, nàng gom hết sức lực để sống và để nhìn thấy con gấu vục  mặt vào những dĩa thức  ăn mà với cố gắng phi thường, nàng đem xuống  cho nó. Nàng vui sướng thấy nó ăn ngon  lành, đó là phần thưởng xứng  đáng cho nỗ lực đáng thương của nàng.
    Có lẽ chuyện ghê gớm nhất đã xảy ra là khi chảo mỡ bị bắt lửa  trên bếp. Trong  cơn sợ hãi điên cuồng, nàng đã dập tắt được ngón lửa.  Tay nàng bị bỏng nhiều chỗ.  Không phải sự đau đớn làm cho nàng sợ. Điều  làm nàng sợ là ngọn lửa lan qua đồ đạc.  Con gấu sẽ bị thiêu sống. ý  nghĩ đó làm nàng phát ốm. Nàng vắt óc tìm một giải pháp nếu  chuyện đó  xảy ra thật. Nàng chợt nhớ tới Harry, người chồng cũ của nàng (nàng quên  hắn  nhiều năm qua) có một khẩu súng lục. Nàng lên lầu, tìm thấy nó  trong tủ cũ của Harry.  Nàng thấy an tâm. Vật này sẽ đem đến cho con gấu  cái chết nhanh chóng, không đau đớn.
    Một ngày nọ, lò sưởi bị sụp. Việc sửa chữa nó không trong khả  năng của nàng.  Thế là cà phê cho con gấu đêm đó được pha thêm thuốc  ngủ. Ngày hôm sau, khi nó đang  say ngủ vì thuốc, nàng lấy khăn trải  giường phủ kín cái chuồng, kê những đồ đạc không  dùng sát cửa chuồng  rồi gọi thợ xây.
    Những người thợ không hề biết chỉ cách đó vài thước có một sinh vật đã từng là  người, đang ngủ say.
    Nhiều năm nữa trôi qua.
    Mùa hè năm đó, tôi chẳng có việc gì, hơn nữa, tôi mới mười sáu  tuổi. Cha mẹ tôi  chết trong một tai nạn xe hơi cách đó vài tháng. Tôi  đi chơi với ông nội tôi ở Wilton Falls.  Ông nội tôi là một quan tòa.  Ông thường dùng túp lều nhỏ ở đó vài lần vào mùa thu trong  những cuộc  săn bắn nhưng năm nay ông đi sớm cùng tôi. Có lẽ ông nghĩ rằng thú câu  cá  và những trò chơi trong rừng sẽ tốt cho tôi, giúp tôi quên đi chuyện  bất hạnh.
    Tôi ở trong rừng cả ngày hôm đó, chỉ có mình tôi. Khi tôi đi  ngang qua khu vườn  có hàng rào bao quanh của gia đình Winters, lúc đó  đã mục nát. Tôi đạp thử vào dây thép  gai. Nó bung ra. Nhanh nhẹn, tôi  nhảy qua và rơi vào khu vườn im lìm. Một ngôi nhà cổ  kính có vẻ tiêu  điều hiện ra trước mặt tôi. Tôi ngạc nhiên. Có ai trong đó không nhỉ ?  Có  lẽ không vì trông có vẻ hoang phế quá. Tôi đi loanh quanh dò xét và  tôi bỗng thấy một cái  nắp hầm bằng gỗ đã mục trên bãi cỏ sau nhà. Trong  hầm tối thui. Giây lát sau, tôi mới  nhận ra có ánh đèn leo lét. Thẳng  ngay bên dưới có một cái gì trông giống như cái  chuồng. Có cái gì thù  lù trong đó.
    Một cái bóng ? Không, hình như nó cử động.
    Thình lình, tôi thấy một đầu tóc rối bù, một cặp mắt trắng dã,  thất thần, ghê rợn  mà tôi chưa bao giờ trông thấy. Tim tôi như muốn rớt  ra ngoài. Không thể tin được ! Tôi  cứng người như thể bị cặp mắt đó  giữ chặt.. Cái đầu bờm xờm quay đi và tôi thoát ! Tôi  chạy, chạy như  điên giữa ánh nắng gắt của buổi trưa hè, trên bãi cỏ của khu vườn ma   quái. Nhảy qua những dây thép gai, mặc cho những gai nhọn xé rách áo  quần, da thịt. Tôi  chạy chậm dần khi gần đến túp lều của ông tôi. Tôi  cảm thấy xấu hổ vì tôi chẳng còn bé  bỏng gì, mười sáu tuổi rồi cơ đấy !  Thế mà chạy như thỏ ... nhưng hình ảnh đôi mắt đó  hiện lại trong đầu  làm tôi cứ toát mồ hôi.
    Ông tôi đang lúi húi bên bếp khi tôi vào.
    - Cháu đã về đấy à ... ông đang không biết cháu ở đâu ... sắp ăn rồi...  Tôi đứng im, lưng dựa cửa, thở dốc :
    - Ông ơi ...
    Cố trấn tĩnh, nhưng giọng tôi cứ run.  Ông tôi quay lại. Mắt ông loang loáng.
     - Chuyện gì vậy cháu ? Sao cháu hoảng hốt vậy ?  Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh nhưng không được.
    - Ông ơi, ai sống trong ngôi nhà ở bìa rừng kia vậy ?  Ông tôi nhíu mày.
    - ở bìa rừng ... à ... nhà Winters ... có chuyện gì vậy ?  - Cháu vừa ở đó về, cháu thấy ...
    - ở đó ? Xung quanh có hàng rào mà ? Cháu không leo rào vào nhà người ta đấy chứ ?
    - Nhưng hàng rào thép gai mục nát hết rồi ... cháu không thấy có  bảng cấm.  - à, có lẽ bị mất rồi ... nhưng ở đây ai cũng biết đó là khu  vực của gia đình  Winters.
    - Nhưng cháu không biết. Cháu nhìn vào cửa một nắp hầm ... có  cái gì trong đó  giống như cái chuồng ... có một người đàn ông ...
    Ông tôi kéo một cái ghế lại bên bàn, ngồi xuống ôn tồn :
     - Cháu kể đầu đuôi cho ông nghe nào ... cháu nói cái gì ? Cái chuồng? Một người  đàn ông?
    Tôi kể lại. Ông tôi có vẻ không tin.
    - Cháu thấy thật chứ ? Không tưởng tượng chứ? Ai cũng biết bà  Winters sống ở đó  một mình. Cuộc đời bà ta thật bi thảm. Chồng bỏ, con  trai chết trận. Ông không muốn  những tiếng đồn không tốt về bà ta lan  khắp nơi do cháu của ông bịa ra, điều đó sẽ xúc  phạm ghê gớm đến bà ấy.
    - Không, cháu nói thật mà ! Ông đến mà xem ...
    Có lẽ lời lẽ thành khẩn của tôi làm ông tôi ngạc nhiên. Ông đứng dậy.
    - Được, đi, nhưng ông không thích trò này chút nào. Ông tin chắc cháu chỉ tưởng  tượng.
    Đêm đó, cả tỉnh Wilton bàng hoàng.
    Cảnh sát cưa ổ khóa cho Harry ra ngoài bầu trời tự do. Giờ đây,  hắn đã là một ông  già mắt kém, chân run. Người nữ quản lý thư viện dịu  dàng kia được đưa vào một "nhà  bảo vệ", lời yêu cầu duy nhất của nàng  là "con gấu" phải được chăm sóc cẩn thận. Khi  người ta hứa sẽ trông nom  hắn, nàng mới chịu đi. Thật ra, cả hai đều được đưa đến nhà  thương  điên của tỉnh.
  Cả tỉnh ồn ào cho đến hai tuần sau. Báo chí địa phương đăng những hàng tít lớn :  "Người chồng bị nhốt trong cũi 30 năm"
    Bên dưới hình tôi, họ viết :
    "Cậu bé dám nhìn vào ngục tối của mụ phù thủy"  Dưới hình của  Harry : "Ông lão bị nhốt trong cũi 30 năm" Và dưới hình Miriam : "Mụ phù  thủy của tỉnh Wilton Falls. Mụ biến chồng mình thành một con gấu".  Đó  là chuyện rắc rối cho tôi. Tự nhiên, tôi trở thành một vị anh hùng!  Nhưng khi nhìn kỹ  những bức ảnh của ông bà Winters, tôi thấy lạ lạ. Cả  hai đều có nét mặt như con nít khi bị  dẫn đi.
    Miriam được đưa vào nhà thương điên của quốc gia. Nhưng xử trí  với Harry lại là cả một  vấn đề. Những bác sĩ tâm thần chẳng làm gì  được. Ông ta không nói năng gì.
    Sau cùng, họ kết luận rằng trí não ông ta trở nên đần độn vì  những năm tháng dài bị giam  trong chuồng. Ông ta hoàn toàn vô hại, có  thể được trông nom riêng.
    Nhưng thế nào là "trông nom riêng"?
    Người ta phản đối việc giam lỏng ông ta ở một nơi vì họ cho rằng  những năm còn lại  trong đời, ông ta đáng được hưởng "tự do" như ...
    Người ta bàn bạc nhiều về việc ấy. Cuối cùng, Harry được trả về  nhà cũ. Một nhóm người  xung phong được thành lập, thay phiên hàng ngày,  từng người đến trông nom ông già,  đem thức ăn đến, đem áo quần ông ta  đi hiệu giặt ... Nhiệm vụ của họ cũng có cả việc  "nhân hóa"ông ta.  Nhưng họ thất bại hoàn toàn vì Harry chẳng màng nói chuyện với Bất  Cứ  ai.
    Thế sự tự do của Harry có ý nghĩa gì đối với ông ta trong những ngày cuối cùng của cuộc  đời ông ấy ?
    Cũng lại tôi khám phá ra lần nữa.
    Bất hạnh thay !
    Một đêm tháng tám nóng bức, sáu tuần sau khi ông ta được thả về  nhà cũ, tôi trở  lại nơi đó, quyết định ghé qua nhà để coi ông ta ra  sao. Khi tôi đến thì căn nhà tối đen trừ  ánh đèn yếu ớt hắt lên từ dưới  tầng hầm. Tôi nhớ lại những lời đồn là căn nhà không bị xáo trộn một  thứ gì, không một đồ đạc gì được đụng đến. Họ nói ... ngay cả giường ngủ   cũng không có ai nằm. Phải chăng sau những năm ấy, Harry chỉ có thể  ngủ ngon giấc  trong cái chuồng cũ của ông ta? Có phải ông ta trở lại đó  hàng đêm?
    Rón rén, tôi bò đến bên nắp hầm. Qua ánh sáng yếu ớt, tôi nhận  ra cái chuồng. Kế  bên cửa chuồng là cái ghế đu mà Miriam vẫn ngồi. Ngay  sau đó, tôi nhận ra cái bóng bên  cạnh là Harry. Ông ta ngồi trên sàn,  cằm gác lên tay ghế. Tôi ngạc nhiên ... có một hình  ảnh mơ hồ lãng đãng  trong đầu, tôi không nhớ ra, bất chợt nó hiện rõ. Trong phòng ngủ  của  ông nội tôi có một bức tranh tựa đề "Kẻ than thở của người chăn cừu". Đó  là một bức  tranh vẽ hình một con chó u sầu ủ ê nằm cạnh quan tài của  chủ nó vừa chết, một người  chăn cừu. Sự liên tưởng hình ảnh đó với cảnh  tượng dưới kia làm đau nhói tim tôi. Tôi  không thể nhìn thêm nữa.  Nhưng khi tôi sắp đứng dậy thì cái bóng khốn khổ kia cử động.  Cái đầu  rối bù ngước lên, miệng há ra. Một tiếng gào ma quái, rùng rợn. Tôi đưa  tay bịt  chặt tai lại. Nhưng tôi vẫn nghe. Nó khóc, khóc lớn hơn. Tiếng  khóc xé ruột, đau buốt tim  gan, tiếng khóc khao khát, tiếng khóc ước ao  của một con gấu đã được thuần hóa đòi lại  người chủ dịu hiền của nó.
    Tôi bỏ chạy.
    Khi thoát khỏi khu vườn ma quái đó, tôi chạy như kẻ mất hồn dưới  ánh trăng. Lần  này tôi cũng bị rượt đuổi bởi sự khủng khiếp. Nhưng sự  khủng khiếp lần này do chính tôi  gây ra và tôi biết mình không bao giờ  thoát được.
    Sáng hôm sau, người ta tìm thấy Harry nằm chết trong chuồng. Họ  nói do bệnh tim.  Sau đó tôi thường thấy những cơn ác mộng trong giấc  ngủ. Có lẽ tôi la hét nhiều, nói  nhảm nhiều. Vì thế, một sáng nọ, lúc  ăn điểm tâm, ông tôi bảo tôi :
    - Theo ông thì cháu không nên có mặc cảm tội lỗi gì về việc ấy. Nó phải như thế  thôi.
    Tôi gật đầu :  - Vâng, cháu hiểu ...
    Nhưng tôi vẫn sống như kẻ trong mơ. Ông tôi lo lắng cho tôi hơn.   - Đã đến lúc phải xóa tan cái bóng đen trong đầu cháu rồi đấy. Ông sẽ  đưa cháu đến thăm  bà Miriam.
    Tôi đi một cách miễn cưỡng. Nhưng cuộc viếng thăm lại hóa tốt.  Bà Miriam vui  thích khi có bạn, bà trò chuyện thật vui vẻ. Bà đã biết  CON GấU của bà đã chết. Bà nói  rằng bà buồn lắm nhưng bà nói thêm như  một triết gia là dù sao nó cũng đã quá già. Rồi  thật bất ngờ, bà nói  nếu Nó còn sống và còn ốm lần nữa, bà sẽ cho nó ngủ mãi mãi.
    Ông tôi liếc nhìn tôi đầy ngụ ý. Rõ ràng, tôi chẳng cần thêm  chứng cớ gì để biện  minh cho việc tôi tố giác bà Miriam là sai về ...  mặt nhân đạo. Theo ông tôi thì cuộc viếng  thăm đó thật tốt đẹp. Nhưng  theo tôi, ở măt khác nó ngược lại hoàn toàn vì bà Miriam là  người tử  tế, tốt bụng. Bà nói trông thấy tôi, bà nhớ đến con trai bà. Bà mong tôi  đến thăm  bà thường xuyên. Thật ngạc nhiên, tôi nhận lời sẽ làm vui  lòng bà.
    Tôi giữ lời hứa.
    Phải đó là cách xoa dịu mặc cảm tội lỗi của tôi? Vì tôi đã phá  vỡ cuộc sống thích  hợp của vợ chồng họ? Tôi không biết, nhưng tôi biết  một điều là trong những cuộc trò  chuyện với bà ấy, tôi đã HIểU TấT Cả  những nguyên nhân dẫn đến sự cầm tù Harry.
    Tôi nói với ông tôi :  - Bà ấy không hẳn là điên đâu, không hoàn  toàn điên, trừ việc CON GấU ... chính Harry  đã gây nên chứng điên cho  bà ấy ...
    Ông tôi nhìn tôi thở dài :
    - Vậy là cái bóng đen đó vẫn còn lởn vởn trong đầu cháu !
    Miriam được đưa về tỉnh, không phải ở nhà thương điên nữa. Thà  vậy đi, tôi thấy lòng  mình nhẹ nhõm. Tôi vẫn đến thăm bà ấy nhưng thưa  dần. Rồi tôi tốt nghiệp đại học, đi  làm, lập gia đình, dọn đi xa.
    Những cuộc thăm viếng giờ chỉ còn là những thư từ, những thiệp mừng năm mới và bây  giờ ...
    Tôi nhìn lại bức thư trong tay.
    Vậy là từ đây chẳng còn viết thư cho bà ấy nữa. Chẳng còn ân hận  nữa. Miriam đã  trả xong món nợ của bà cho xã hội và xã hội đã vừa  lòng. Về phần tôi, RIÊNG TÔI, tôi ao  ước được sống lại những ngày hè  năm đó, được sống lại vào đúng cái lúc tôi nhìn vào cặp  mắt của Harry.
    Lần này, tôi sẽ nhìn vào cặp mắt gần lòa của ông ấy và sẽ lặng lẽ bỏ đi. 
    Kết Thúc
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Trân trọng cám ơn!