-->
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thiên Đình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thiên Đình. Hiển thị tất cả bài đăng

2011-08-21

Tứ Đại Nguyên Soái

Tứ đại nguyên soái trong thần thoại Trung Hoa là bốn vị thần tướng canh giữ trên thiên đình

Tứ đại Nguyên soái gồm:

  • Mã nguyên soái, còn gọi là Mã nguyên quân, Hoa Quang thiên vương, Hoa Quang đại đế
  • Triệu nguyên soái, tức là Vũ Tài thần Triệu Công Minh, Triệu Huyền Đàm
  • Ôn nguyên soái, tức là Ôn Quỳnh, Đông nhạc đế bộ tướng
  • Quan nguyên soái, tức là Quan Vũ, Quan thánh Đế quân

Trong bốn đại nguyên soái này, Triệu nguyên soái Triệu Công Minh được thờ như là vị thần tài giữ của cải, được các nhà buôn bán thờ. Quan nguyên soái tức Quan Vũ là người có thật, sống vào thời Tam Quốc, được thờ ở rất nhiều nơi.

Triệu Công Minh

http://www.phongthuyquan.vn/components/com_virtuemart/show_image_in_imgtag.php?filename=%2Fcomponents%2Fcom_virtuemart%2Fshop_image%2Fproduct%2FIMG_1230.jpg&newxsize=150&newysize=150&fileout=

Thần tài Triệu Công Minh theo tục truyền thì ông sinh vào đời Tần,tu hành đắc đạo thành tiên, được thiên đế phong là " Lôi Phó NguyênSoái" (tức là phó nguyên soái Thiên Lôi) trên đầu đội mũ sắt cưỡi trênlưng cọp màu đen, mặt đen râu rậm, tay vung roi sắt, phù hộ cho ngườibuôn bán, giúp thương gia kiếm được nhiều tiền, chức vụ đầy đủ của ônglà " Triệu Nguyên Soái tổng quản chấp pháp trên lưng hổ nhiều bánh ởthượng giới trong đàn Thanh chính nhất huyền".

Tục gọi là Triệu Nguyên Soái hay Triệu Huyền Đàn. Ngài cũng gọi là Võ Tài Thần có thể chiêu tài hóa sát.


Quan Vũ

http://www.phongthuy.com.vn/ProductFolder/Thumbnails/1141670707.jpg

xem chi tiết về Quan Vũ tại link

http://tamlinhhoc.blogspot.com/2011/08/quan-vu.html


Tứ Trực Công Tào

Tứ trực Công tào là bốn vị thần trông coi về thời gian trên thiên đình trong thần thoại Trung Hoa

Tứ trực công tào gồm:

  • Trực Niên thần Lý Bính: trông coi về năm
  • Trực Nguyệt thần Thừa Ất: trông coi về tháng
  • Trực Nhật thần Chu Đăng: trông coi về ngày
  • Trực Thời thần Lưu Hồng: trông coi về giờ

2011-08-20

Trung ương Thiên quan

http://xy.linekong.com/WebFiles/Image/2009/04/16/20090416034524n738.jpg


Trung ương Thiên quan là các vị thần tiên có chức tước tại trên Thiên đình trong Đạo giáothần thoại Trung Hoa

  • Thiên lý nhãn, Thuận phong nhĩ: Thần có mắt nhìn nghìn dặm, thần có tai nghe theo gió
  • Kim đồng, Ngọc nữ
  • Lôi công, Điện mẫu (Kim quang thánh mẫu), Phong bá, Vũ soái: Bốn vị thần làm sấm, chớp, gió, mưa
  • Du dịch linh quan, Dực thánh chân quân: hai vị thần di chuyển rất nhanh
  • Đại lực quỷ vương: quỷ vương có sức lực vô hạn
  • Thái bạch Kim tinh: Sứ giả của trời, tinh của Sao Kim
  • Xích cước đại tiên
  • Quảng Hàn tiên tử (Hằng Nga tiên tử, Thường Nga),
  • Ngô Cương, Thiên bồng nguyên soái, Thiên hựu nguyên soái,
  • Cửu Thiên huyền nữ
  • Thập nhị Kim thoa
  • Cửu Diệu tinh quân
  • Nhật du thần, Dạ du thần,
  • Thái Dương tinh quân, Thái âm tinh quân,
  • Vũ đức tinh quân, Hựu thánh chân quân
http://giaoduc.net.vn/images/stories/2011/08/01/110622162103-63P-1.jpg

Ngọc Hoàng Thượng đế



Ngọc Hoàng Thượng đế

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/7/7e/Jade_Emperor.jpg/220px-Jade_Emperor.jpg

Ngọc Đế theo quan niệm Đạo giáo

Ông Trời” là để chỉ Ngọc Hoàng Thượng Đế , cũng tôn xưng bằng nhiều danh hiệu như:- “Ngọc Đế” , “Hạo Thiên Thượng Đế” , “Huyền Khung Cao Thượng Ngọc Hoàng Đại Thiên Đế”, “Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Chí Chân NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ”. NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là vị thần minh cao cấp của Đạo giáo, địa vị gần nhất dưới Tam Thanh Tôn Thần. Nhưng trong con mắt của người thế tục Trung Quốc , NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là vị thần tối cao, là vua của các thần khác.

  • Theo truyền thuyết dân gian, NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ không chịu mệnh lệnh của vua khác, cai quản khắp nhân gian, thống trị hết thần tiên của ba giáo Nho, Đạo, Thích, điều động hết thiên thần, địa kỳ, nhân quỉ. Thiên thần là những vật tự nhiên được “thần hóa” như:- mặt trời, mặt trăng, sao, phong bá (thần gió), vũ sư (thần mưa), tư mệnh, Tam Quan đại đế, Ngũ Hiển đại đế v.v…đều dưới quyền của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Địa kỳ (chi) cũng là những vật tự nhiên ở đất được thần hóa như:- thần Thổ Địa, thần Xã tắc, thần Núi non, thần Sông biển, thần Năm tháng, nói chung bao quát cả “bách thần”. Nhân quỉ là những nhân vật lịch sử sau khi chết được thần hóa, bao gồm : tổ tiên, những bậc công thần, những văn nhân v.v…

NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ thống lãnh trời, đất, người, thần linh ba cõi, cùng quản lý mọi sự thịnh suy tốt xấu của vũ trụ vạn vật . Về lãnh vực nầy, Ngài có các thuộc hạ như:- Văn Xương đế quân coi về sự học hành, Quan Thánh đế quân coi về việc mua bán, Xảo Thánh Tiên sư coi về công nghiệp, Thần Nông Tiên đế coi về nghề nông, Đông Nhạc đại đế cai trị các địa phương, cùng với những phụ tá như :- Thanh Sơn vương, Thành Hoàng gia, Thổ Địa công, Địa Cơ chủ. Ngoài ra còn có những vị coi về phần âm như:- Phong Đô đại đế và Thập Điện Diêm Vương …Tất cả đều dười quyền cai trị, chỉ đạo, phân bổ của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ .

Trong cơ sở lý luận của Đạo giáo, có sự phân chia rõ rệt của ba giới: trời, đất, người. Trời thì có 13 tầng, một tầng là ba mươi ngàn dậm. Khu vực “Trời ngoài” gọi là “Vô cực”, còn khu vực “Trời trong” gọi là “Thái cực”. Thái Cực thiên lại phân làm năm thiên là :- Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung Ương. NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là vị thần tối cao, tất cả thần linh đều phải nghe theo lệnh của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Sự phân chia Thái Cực thiên như sau:-

1.- Trung Thiên:- là nơi cư ngụ của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ , nắm quyền điều khiển cả trên là ba mươi sáu “Thiên”, ba ngàn thế giới, lẫn dưới là bảy mươi hai “Địa”, tứ đại bộ châu có sanh linh đang sống. 2.- Đông Thiên:- do “Tam Quan Đại Đế” cai quản, chủ về việc ban phước tăng thọ, giải tai xá tội trừ nạn cho sanh linh. 3.- Nam Thiên:- do “Văn Hành Thánh Đế” cai quản, chủ về việc theo dõi ghi chép công tội , hay bổ nhiệm thăng giáng cấp của tất cả chư Thần. 4.-Tây Thiên:- do Thích Ca Mâu Ni cai quản, chủ về giáo dục tâm linh cho con người, dạy họ làm lành lánh dữ và qui y theo Phật để tu đạo giải thoát. 5.-Bắc Thiên:- do “Tử Vi Đại Đế” cai quản, chủ về việc ban cho tiền bạc, tài sản, cũng như họa phước con người.

  • Theo truyền thuyết thì NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ chính là “hóa thân” của “Đấng Tối Cao Thái Cực” trong Tam Thanh, là vị được cổ nhân sùng kính hạng nhất. Ngọc Hoàng cư ngụ nơi “Ngọc Thanh Cung”, chưởng quản hết từ trên là 36 thiên, ba ngàn thế giới, các bộ thần tiên, tới dưới là 72 địa, tứ đại bộ châu. Nói tóm lại , là chưởng quản tất cả chư Thần, Tiên, Phật, cho đến triệu ức sanh linh… do đó mới tôn xưng Ngài là “Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế”.
  • Lại có một thuyết khác, cho rằng NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là “Thiên Quan” của “Tam Quan Đại Đế”, giống như Tử Vi Đại Đế của Đạo giáo , nghĩa là một vị “Phước Thần” coi về phước, lộc , thọ. Tam Quan đại đế còn xưng là “Tam Giới Công”, gồm có:- “Tứ Phước Thiên Quan Tử Vi Đại Đế” ở cõi thượng nguyên, “Xá Tội Địa Quan Thanh Hư Đại Đế” ở cõi trung nguyên và “Giải Ách Thủy Quan Động Âm Đại Đế” ở cõi hạ nguyên, gồm lại gọi là “Tam Quan Đại Đế” vậy.
  • Danh xưng Ngọc Đế xuất phát từ sự tôn trọng “Ông Trời” của người thượng cổ. Thời đại nhà Ân, nhà Thương gọi vị thần tối cao là “Đế” hoặc “Thiên Đế” hay “Thượng Đế”, có nghĩa là một vị “VUA” có năng lực chi phối hết thảy trên trời dưới đất , hai bên chư thần văn võ. Đời nhà Châu (Chu) lợi dụng tinh thần sùng bái “Ông Trời” nầy mà gọi vua là “Con của Trời” (thiên tử) nên “vua nói ra thì tất cả phải nghe theo”.
  • Về lãnh vực “Họa hình” thì mãi tới đời Đường, Tống mới có chính thức. Đó là hình tượng một vị “mình mặc loại y phục Cửu Chương, đầu đội mão Thập Nhị Hành , tay cầm Ngọc Hốt, (玉笏 : Cái hốt, ngày xưa vua quan ra chầu đều cầm cái hốt, hoặc làm bằng ngọc, hoặc làm bằng tre, ngà, có việc gì định nói thì viết lên giấy để phòng cho khỏi quên. Ðời sau hay làm bằng ngà voi mà chỉ các quan cầm thôi—TĐHV Thiều Chửu). Hai bên có Kim Đồng, Ngọc Nữ theo hầu, hoàn toàn mô phỏng theo y phục của vua chúa Tần, Hán.

  • Theo “Cao Thượng Ngọc Hoàng Bản Hạnh Tập Kinh” viết:-

-Vào đời viễn cổ, có một nước tên là “Quang Nghiêm Diệu Lạc”, vua là “Tịnh Đức Vương”, hoàng hậu là “Bảo Nguyệt Quang” , đã lớn tuổi mà chưa có con trai. Một đêm nọ, nằm mộng thấy Thái Thượng Lão Quân bồng một đứa con nít trai đưa cho hoàng hậu. Tỉnh dậy, hoàng hậu biết mình có thai. Mang thai mười tháng, đến ngày mùng chín tháng giêng năm Bính Ngọ thì hạ sanh Thái Tử. Từ nhỏ, Thái tử rất thông minh trí tuệ, lớn lên đã phụ tá cho vua cha đắc lực, thương yêu dân chúng, làm việc thiện cứu giúp nhân dân. Sau khi nhà vua băng hà, Thái tử giao đất nước lại cho các đại thần rồi vào trong núi để tu hành. Trải qua tám trăm kiếp, hi sinh bỏ mạng để cứu chúng sanh, cuối cùng đạt đạo chân, phi thăng cõi trời, được muôn thần sùng kính ái mộ, đưa lên làm “NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ ”, cai quản khắp tam giới.

Ngày mùng chín tháng giêng âm lịch là ngày “Đản sinh” của Ngọc Đế (Thiên Công Sinh) . Tháng giêng là tháng khởi đầu của năm, chủ của bốn mùa, cây cối nhờ vào khí thủy mà từ đó sanh sôi nẩy nở thêm ra. Số “chín” là con số “lớn nhất” của các số, đại biểu cho ý nghĩa “cực đại, cực đa, cực cao”. Cho nên, người ta lấy con số “chín đầu tiên” (thượng cửu) của năm (9 tháng 1) làm ngày sinh của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là do ý đó.

  • Trong “Lãi Hải Tập ” của Vương Quỳ đời nhà Minh nói rằng:- “Nghĩa của ngày sinh thần minh là nghĩa của “sự bắt đầu”, cho nên lấy ngày mùng chín tháng giêng là thánh đản của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Số bắt đầu từ “một” đến lớn nhất là “chín”, kết thúc của “sự bắt đầu” vậy”. Như thế, khi nói đến ngày sinh của các vị thần, chúng ta cần phải lưu ý đến hàm nghĩa của “con số” biểu trưng vậy.
  • Việc cúng bái NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ có nguồn gốc quan hệ đến sự sùng bái trời đất của người xưa và tư tưởng kính trời sợ đất của con người mà thành. Người xưa cho rằng, “Trời” là vị chúa tể của vạn vật, là nguồn gốc của sự sanh ra và nuôi lớn muôn vật, cho nên mọi người không thể không kính trời sợ đất, thuận theo trời mà hành đạo. Do đó, họ nghĩ rằng trong tự nhiên phải có một vị “thần minh tối cao” cai quản và chi phối hết thảy mọi vật. Nhà vua là người được mệnh lệnh của “Trời” cho xuống nhân gian để cai trị người. Nếu vua mà thuận theo thiên ý thì sẽ được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, còn nếu nhà vua làm trái với thiên ý, thì “trời” nhất định sẽ giáng tai họa để trừng phạt. Mà nếu hễ nhà vua mà đã kính sợ “trời” thì các quan và dân chúng cũng phải kính sợ “trời”. Vua đã là người phụng mệnh “trời” để cai trị dân chúng thì nhất nhất không thể không sùng bái “trời”, cho nên phải có định kỳ “tế trời”, đó là chức trách tối quan trọng của nhà vua. Trải qua nhiều triều đại, mỗi năm nhà vua đều phải cử hành “LỄ GIAO” (lễ tế trời), nhưng chỉ có “nhà vua” mới là người “đủ tư cách tế trời” mà thôi ! Đến khi, triều đại phong kiến kết thúc, dân chúng mới bắt đầu được phép “tế trời”.
  • Theo trong các sách sử thì từ các đời Tần , Hán,Đường, Tùy, Tấn, Ngụy… đều có tổ chức “Lễ tế trời” rất trọng thể. Nhưng “trời” không thể hiểu như là “bầu trời xanh trên cao” kia được, khái niệm “trời” rất vô hình, mênh mông … thì làm sao biết chỗ nào, người nào… để cúng tế đây ? Từ đó, người ta phải cụ thể hóa “trời” bằng danh xưng “NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ ” để có đối tượng rõ ràng mà cúng bái.
  • Vì NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là vị thần do con người tưởng tượng ra mà thành, nên không thể có “hình dạng cụ thể” được. Mãi cho đến thời vua Tống Chân Tông mới có hình tượng NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ như đã mô tả ở trên. Như vậy, chúng ta thấy có sự khác biệt về nhận thức của “Trời Vô Hình” lúc đầu và “Trời Hình Tượng” kể từ khi Đạo giáo thịnh hành. Còn trong dân gian, không cần nói đến ý nghĩa cao thấp , hữu hình vô hình gì cả, mà trong đầu mỗi con người Trung Quốc đều mang nặng, khắc sâu hình tượng “ÔNG TRỜI” hiện diện rất thân cận, gần gũi và mật thiết với họ.
  • Việc cúng tế “Ông Trời” phải được thực hiện sao cho có phần long trọng, trang nghiêm hơn các “thần minh’ khác, vỉ Ngài là vị quyền uy tối cao trên tất cả thần thánh khác. Do đó, lúc đầu không ai dám đưa hình tượng nào ra về Ngài, chỉ dùng hai biểu tượng là “Thiên Công Lô” (lò hương cúng trời) và “Thiên Công Tòa” ( ngai vua trời) để cúng bái mà thôi. Các Miếu thờ đều đặt “Thiên Công Lô” ở trước cửa, khi cúng bái thì ngẫng mặt lên bầu trời mà van vái, từ đó phát sinh tục lệ “đốt nhang” trong cúng tế.
http://viet-namart.com/uploadedImages/imgProducts/large_Ngoc-Ho%C3%A0ng-Thu-ng-d-.jpg

-Trong con mắt của mọi người, NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là lớn nhất, nên việc cúng tế phải làm cho ra vẻ mới được. Vòa buổi chiều hôm trước (tức chiều mùng 8/1) , cả nhà già trẻ bé lớn đều ăn chay, tắm gội sạch sẻ, sửa soạn phẩm vật thịnh soạn. Kế đó, dâng hương cúng tế, lạy ba lạy chín vái . Trong ngày cúng tế, không được phơi quần áo đàn bà, phải lật úp “thùng phân” lại để thiên công không nhìn thấy, khỏi phạm tội bất kính. Ở những nơi cúng tập thể phải có phẩm vật đặc biệt là “con heo nguyên vẹn” để cúng theo nghi thức rất long trọng. Vì địa vị của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ quá cao, nên phàm những việc nhỏ nhặt như cầu tài, cầu tự, cầu danh, cầu lợi đều không được “cầu trời phò hộ”, vì Ngọc Đế đâu có rãnh mà giải quyết những chuyện nầy ! Khi cúng Ngọc Đế, tất phải nhớ cúng thêm cả hai ban văn võ bá quan theo hầu cận Ngài, không được chỉ để một tượng Ngọc Đế đơn độc mà cúng, như thế thành ra “cô quân” (ông vua cô độc) hay sao ? Phạm vào điểm nầy, thành ra tội bất kính Ngọc Đế vì không nói lên được uy thế của Ngài .

  • Ngày mùng chín tháng giêng âm lịch là ngày “đản sinh” của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Xứ Mân Nam của Đài Loan dân chúng gọi là “Ngày sinh ông Trời”. Vào ngày ấy, tất cả những đạo quán đều tổ chức cúng kiến với những nghi thức vô cùng long trọng như :- Chúc thọ, tụng kinh, lễ bái… Nhà nhà người người đều ra ngoài trời, hướng vọng lên không trung mà khấu bái.
  • Ở thời đại phong kiến, chỉ có nhà vua mới đủ tư cách tế trời, còn dân chúng thì tuyệt đối không được tùy tiện cúng bái trời. Khi phong kiến kết thúc, điều cấm kỵ trên đã bãi bỏ. Tuy vậy, dân gian vẫn tin rằng địa vị của Ngọc Đế quá cao nên không được phép tô vẽ đắp hình tượng của Ngài để thờ cúng, mà chỉ dùng hai món tiêu biểu là “Thiên Công Lô” và “Thiên Công Tòa” như đã nói ở trên để cúng bái . Khi cúng, tín đồ chỉ thắp hương và lễ lạy trước “Thiên Công Lô” mà thôi.
  • Nghi thức “cúng trời” chỉ diễn ra từ khuya đêm mùng tám đến khi mặt trời mọc sáng mùng chín thì ngừng. Ngày hôm trước đó, cả nhà đều ăn chay tắm gội sạch sẻ, tập trung mạnh mẽ tinh thần , bỏ hết những chuyện tạp nhạp trong tâm, để việc cúng tế được linh nghiệm. Mọi người tập trung trước chính sảnh (gian thờ), trần thiết bàn bát tiên, lập đàn cúng tế. Trên bàn cúng trời, có :- cặp đèn “thần đăng”, năm thứ trái cây (cam, quít, tần quả, chuối, mía), phải nấu sáu món chay là :- kim châm, mộc nhĩ (nấm mèo), nấm hương cô, rau thái tâm, đậu uyển, tàu hủ, tất cả thức ăn đều phải được đậy kỹ bằng vải lưới thật mỏng, ngoài ra, đặc biệt còn phải có ba hộp trà ngon. Có tổ chức múa mâm vàng, ca hát chúc tụng, phát “lộc”. Khi đến giờ mãn, cả nhà chỉnh trang y phục, đến chính sảnh đứng theo tôn ty thứ tự mà hành lễ “tam quỵ cửu khấu” (ba lạy chín vái), sau đó mới đốt giấy tiền vàng bạc. (công kim)

Một vài nơi, người dân có tục “cúng gà” trong dịp nầy, phải dùng gà trống để cúng chứ không được dùng gà mái.

http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTufluZYwvopcyyx7_mCIt-GPd2ifaHDvT5yvnBm42wv7bF4_JHMg


*Nguyên danh của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là gì ?
***
Tiểu sử Đức Ngọc Hoàng Đại Đế như sau:-

NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ gọi tắt là NGỌC HOÀNG , cũng xưng là Hạo Thiên Kim Khuyết Điệt Tôn NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ hay Huyền Khung Cao Thượng NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ .
Đời nhà Tống, vua Chân Tông và Huy Tông đều có thánh hiệu nầy. Tống Chân Tông thì xưng là Thái Thượng Khai Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chân Thể Đạo NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN ĐẾ . Tống Huy Tông thì xưng là Thái Thượng Khai Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chân Thể Đạo Hạo Thiên NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ . Còn trong Đạo Kinh tôn xưng là Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Điệt Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Điệt Tôn NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ .

*Y cứ vào “Cao Thượng Ngọc Hoàng Bản Hạnh Tập Kinh”, ở Hạo Thiên giới, có đức Quang Nghiêm Tịnh Lạc quốc vương và Hoàng hậu Bảo Nguyệt hạ sinh ra NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Khi vừa sinh ra, toàn thân tỏa hào quang. Trong nước tất cả đều được sung mãn, lúc còn nhỏ thì Ngài được thông minh sáng suốt, khi lớn lên thì tâm từ chan rãi khắp nơi, đem tiền bạc vật báu trong kho ra bố thí cho những kẻ nghèo nàn khốn khó, cô đơn không nơi nương tựa, đói rách tàn tật. Sau khi quốc vương Tịnh Lạc băng hà, thì Thái tử lên ngôi trị vì, đất nước rất phồn thịnh. Một thời gian sau, vua giao lại nước cho các đại thần, rồi vào trong núi Phổ Minh Hương Nham mà tu hành, trải qua ba ngàn hai trăm kiếp
chứng được kim tiên, lấy hiệu là “Tự Nhiên Giác Hoàng”, lại trải qua trăm ngàn kiếp nữa mới chứng Ngọc Đế.

1.- LÀ VUA CỦA MUÔN THẦN:-

NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là vua các cõi trời, các cõi tiên; là chủ của các cõi thánh, là Thần tối cao của ba động Tiên, của các Thần trong tam giới. Ngọc Hoàng có quyền ra mệnh lệnh cho chín từng trời, cai trị các thần trong năm non bốn biển. Đi đâu thì muôn thần theo làm tả hữu, giống như hoàng đế trần gian có các bề tôi theo hầu vậy. Ông Bạch Cư Dị có bài thơ rằng:-

“An kỳ tiện môn bối,
Liệt thị như công khanh
Ngưỡng yết Ngọc Hoàng đế,
Khể thủ tiền trí thành”

*Dịch:-

“Xung quanh nhiều kẻ hầu,
Giống như các quan chầu
Ra mắt đức Ngọc Đế,
Như thành kín, cúi đầu”
(các quan vây quanh như tường thành kín đáo vậy)

2.- CAI QUẢN HẾT THIÊN ĐẠO:-

NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là hóa thân của Tam Thanh. Ngọc Hoàng đối với tam thanh giống như là trước thì không có mà sau thì diệu hữu, trước là Vô cực sau là Thái cực , trước thì vô vi sau là hữu vi vậy. Vì thế, Ngọc Hoàng là chủ tể của Tam tài, đứng đầu thiên địa nhân. Ngọc Hoàng điều khiển Tử Vi Bắc Cực Đại Đế điều hành ngang dọc của trời đất; khiển Câu Trần Thượng Cung Đại Đế điều hành Tam Tài, chấm dứt việc binh đao; khiển Hậu Thổ Hoàng Địa theo âm dương mà sanh sanh hóa hóa. Nói chung, khắp cả đất trời, núi sông đất lớn, tạo hóa âm dương …không có gì ở ngoài sự chưởng quản của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ .

*VIỆC CÚNG TẾ:-

Ngày đàn sanh của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là mùng chín tháng giêng. Nơi các cung quán đền miếu của Đạo Giáo đều có cử hành nghi thức cúng tế, gọi là “Hội Ngọc Hoàng” . Đạo sĩ và tín chúng tụ hội tổ chức đại lễ “Trai thiên” (Lễ Chạp Trời) để cầu xin được ban bố phúc đức, thọ mạng dài lâu.
Ở hai tỉnh Phúc Kiến và Đài Loan, dân chúng gọi NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là “Thiên Công” (Ông TRỜI), ngày mùng 9 tháng 1 gọi là lễ “Bái thiên công” (lạy ông Trời). Cả nhà già trẻ bé lớn , đều ăn chay, tắm gội sạch sẻ, dâng hương lễ bái, tụng kinh. Có nơi còn tổ chức hát ca vui vẻ. Miền bắc Trung Quốc còn có tập tục rước kiệu tượng Ngọc Hoàng đi vòng quanh khắp đường trong xóm ấp mình. Đến ngày 25 tháng chạp , các đạo quán và dân chúng làm lễ dâng hương tụng kinh để kính tiễn Ngọc Hoàng.

***


Tích Khác


Ngọc Hoàng Thượng đế

Lịch sử

Từ thượng cổ, người Trung Quốc đã tôn thờ một vị vua trên trời, gọi là Thượng Đế. Tuy nhiên từ đời Thương thì Thượng Đế đã hoàn toàn chỉ là một vị thần, không có quyền năng sáng thế. Vị Vua trời này được cho là sống tại một cung điện tại chính giữa bầu trời, tại Thiên Cực Bắc. Đến các triều đại về sau, vị thần này được gọi dưới nhiều danh hiệu khác nhau:

  • Hạo thiên Kim khuyết Vô thượng Chí tôn Tự nhiên Diệu hữu Di la Chí chân Ngọc hoàng Thượng đế, Huyền khung Cao thượng Ngọc hoàng Đại đế.
  • Đến đời Minh, danh hiệu đầy đủ là: Cao thiên Thượng thánh Đại từ Nhân giả Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn Huyền khung Cao Thượng đế. (Nghĩa là Vị thánh tối cao trên đỉnh trời, vô cùng nhân từ, là Ngọc Hoàng, bậc Thiên tôn vĩ đại, Huyền diệu lớn lao làm chủ trên cao).

Ngoài ra Ngọc Hoàng Thượng đế còn được gọi bằng các tôn hiệu: Thiên Đế, Ngọc Đế, Đế Tể

Vai trò

Ngọc Hoàng Thượng đế là vị vua của Thiên đình, cai quản toàn bộ bầu trời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ. Ngọc Hoàng đứng đầu tất cả các thần, tiên, có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chớp, nước lửa... Ngọc Hoàng có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình, thường là những điều tốt đẹp. Ngọc Hoàng cũng là người xét phong cho các vị thần, hoặc xét phạt các thần tiên.

Trong Đạo giáo, Ngọc Hoàng vẫn ở dưới Tam Thanh, do Nguyên Thuỷ Thiên Tôn chỉ định làm vua.

Nơi ở

Ngọc Hoàng được cho là ở và làm việc tại một cung điện trên trời gọi là Kim Khuyết Vân cung Linh Tiêu bảo điện (gọi tắt là điện Linh Tiêu), nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác.

Quyến thuộc

Có nhiều thuyết về quyến thuộc của Ngọc Hoàng, không thống nhất. Có truyền thuyết nói vợ của Ngọc Hoàng có hiệu là Thiên Hậu (không phải bà Thiên Hậu Thánh mẫu), có chín con trai. Có thuyết nói em gái Ngọc Hoàng sinh ra Nhị Lang. Có thuyết đồng nhất Ngọc Hoàng là Đông Vương Công, vợ là Tây Vương Mẫu, sinh bảy con gái.

Truyền thuyết dân gian Trung Quốc

Có truyền thuyết cho rằng Ngọc Hoàng Thượng đế là Đông Vương Công, hay còn gọi là Mộc Công, có vợ là Tây Vương Mẫu. Có truyền thuyết lại cho rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế vốn người trần, tên là Trương Hữu Nhân, là trang chủ thôn Trương Gia Loan. Vì tính hay nhường nhịn, ông được gọi là Trương Bách Nhẫn; do hay giúp đỡ, ông được gọi là Đại Quý Nhân.

Trương Hữu Nhân có một vợ họ Vương, và bảy cô con gái: Đại Thư, Nhị Thư, Tam Thư, Tứ Thư, Ngũ Thư, Lục Thư và Trương Thất Nữ

Truyền thuyết chịu ảnh hưởng Phật giáo

Theo thuyết này thì Ngọc Hoàng đã tu 1550 kiếp, mỗi kiếp (kalpa) dài 126 nghìn năm, mới lên được ngôi vị Ngọc Hoàng.
Ngọc Hoàng và Dương mẫu có duy nhất một người con gái được gọi là công chúa. Bảy nàng tiên theo truyền thuyết là con Ngọc Hoàng, thực chất chỉ là bảy tiên nữ theo hầu hạ Dương mẫu.

Theo đạo Cao Đài

Ngọc Hoàng Thượng đế còn được gọi với nhiều danh từ khác nhau: Chúa Trời, Ông trời, Đại Từ Phụ, Đấng Tạo Hóa, Đức Chí Tôn...là đấng tạo hóa sáng lập ra càn khôn vũ trụ và vạn vật, là nguồn cội của các tôn giáo, là đấng tối cao toàn năng, làm chủ cả thần, thánh, tiên, phật.

Trong Tây Du Kí

Trong tiểu thuyết Tây du kí, Ngọc Hoàng được mô tả như một vị vua không có tài năng, không có chính kiến, chỉ biết trông chờ sự giúp đỡ của các thần tiên khác. Chính vì vậy mà nhân vật Tôn Ngộ Không đòi phế bỏ Ngọc Hoàng để mình lên thay.

Trong truyện dân gian Việt Nam

Truyện dân gian Việt Nam kể con cóc đã lên đánh Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng thua và phải nhận lời rằng mỗi khi cóc nghiến răng thì phải làm mưa xuống trần gian.

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam

Trong đạo Mẫu của Việt Nam, Ngọc Hoàng được gọi là Vua cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, là đấng thần chủ tối cao, tuy nhiên lại không được thờ cúng nhiều


Thiên Hậu Nương Nương


THIÊN HẬU NƯƠNG NƯƠNG
http://www.nto.com.vn/images/news/NTO_1126201033241PMKT_400x300_760.jpg


Ở trong biển Đông Nam (Hải) có dãy đảo đá nhỏ tên là My Châu, thuộc huyện Bồ Điền, phủ Hưng Hóa, tỉnh Phước Kiến. Núi thành vòng bao quanh biển, phong cảnh vô cùng mỹ lệ. Dân sống trên đảo không nhiều, hầu hết đều hành nghề đánh bắt cá. Người dân thật thà chất phác siêng năng.

Vào thời Ngũ Đại thập quốc (khoảng năm 943) , có Ông Lâm Nguyện làm chức Đô Tuần Kiểm, là thuộc hạ của Mân Vương Vương Đình Chính. Tổ tiên đời đời lám quan, cưới vợ dòng dõi hoàng tộc. Lâm Nguyện đến tuổi già về hưu trí tại làng Hồng Loa đảo My Châu phủ Bồ Điền Phước Kiến. Do vì ông bà thường làm công việc từ thiện bố thí , nên dân chúng gọi là “Lâm thiện nhân”. Hai ông bà ăn ở với nhau hạ sanh được sáu người con, một trai năm gái. Con trai tên Lâm Hồng Nghị thì thân thể bạc nhược yếu ớt đau ốm hoài. Ông bà tự nghĩ chắc mình kém phước đức nên chay lạt hằng ngày, luôn hướng về Bồ Tát Quan Thế Âm để cầu nguyện van vái cho được đứa con trai khác khỏe mạnh. Một đêm nọ, bà Lâm đang ngon giấc, mộng thấy đức Quan Âm mang đến cho bà một hoàn thuốc bảo bà hãy uống. Bà vâng lời uống hoàn thuốc nầy thì giựt mình tỉnh dậy. Ít lâu sau, bà biết mình có thai.

*Năm Kiến Long thứ nhất (năm 960) đời vua Bắc Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận, ngày 23 tháng ba vào lúc hoàng hôn , trên thiên không có mây trời năm sắc, từ hướng Tây bắc có một đạo hào quang bay thẳng vào phòng của Bà Lâm làm sáng rực cả nhà, trong nhà có mùi hương lạ tỏa lan khắp nơi. Lúc ấy, bà Lâm cảm thấy đau bụng và nhẹ nhàng sanh ra đứa con thứ bảy.

Ông bà nhìn thấy đứa trẻ sanh ra lại là con gái thì hơi thất vọng, nhưng quan sát kỹ thì đứa nhỏ nầy không giống như những trẻ mới sanh khác, vả lại, đây là đứa trẻ do Quan Âm Bồ Tát ban cho, nên đổi buồn làm vui. Đặc biệt nhất là khi sanh ra, đứa bé chẳng những không khóc mà lại nhoẻn miệng cười. Ông bà đặt tên cho trẻ là Lâm Mặc Nương.

* Khi Lâm Mặc Nương được bốn, năm tuổi, có lần đi theo cha đến núi Phổ Đà ở Định Hải, Chiết Giang để du ngoạn. Khi Lâm Mặc Nương nhìn thấy tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, thì cô nhìn không chớp mắt. Mãi thật lâu, hình như có một sự cảm ứng kỳ diệu từ Bồ Tát thấm vào cô Lâm. Từ đó, cô bổng nhiên có được khả năng lạ lùng là biết trước những điều cát hung họa phước của người khác, giúp cho họ tránh được tại nạn hung hiểm.

* Đến tám tuổi, cô Lâm đã đọc được được nhiều sách kinh sử , lại còn giải nghĩa thông suốt đạo lý trong sách, khiến mọi người nễ phục. Sách nào chỉ cần xem qua liền nhớ đầy đủ, cô lại chăm chỉ vui vẻ thắp hương lễ Phật hàng ngày không trể nãi.
*Năm 13 tuổi, cô bái đạo sĩ Huyền Thông làm thầy để học pháp thuật và được truyền thụ “huyền vi bí pháp”, có thể trị bệnh cứu người.

*Đến 15 tuổi, lại được một vị tiên dạy cho “Đồng phù” và các pháp trừ tà trị bệnh, cứu giúp cho rất nhiều người mắc bệnh khó trị.

Thời gian ấy, cô lại tăng thêm những sức cảm ứng khác tăng thêm năng lực lớn mạnh, bệnh nhân gần xa trong ngoài thành trấn … đề kéo đến xin cô cứu chữa những bệnh ngặt nghèo đều lành, lại còn nói thêm cho biết những điều họa phước để họ tránh tai nạn và gia tăng lòng hướng thiện làm lành.

*Ngoài những tài năng chữa bệnh và dự đoán cát hung nói trên, cô Lâm còn một năng lực siêu phàm đặc biệt khác là “cứu người bị chìm”.

Những ngư dân khi đi ra biển không sao tránh khỏi giông bão, nhiều khi tàu thuyền còn bị nhận chìm, sự chết chóc xãy ra thường xuyên. Nhưng dạo ấy, những ngư dân trong vùng bị nạn chìm thuyền đều thoát nạn trở về nhà an toàn. Những người ấy kể lại rất giống nhau một sự kiện lạ lùng là:- “ khi tàu thuyền bị nhận chìm, người bị rơi xuống biển, bổng nhiên thấy một vị nữ nhân mình mặc áo đỏ, đứng trên một tấm chiếu bằng cỏ, từ xa lướt sóng tới, nắm tay kéo người bị nạn vào bờ an toàn. Sau đó thì không thấy vị hồng y đâu cả. Nhiều lần xãy ra như thế, những nạn nhân nầy bảo rằng, trong lúc nguy cấp, chợt nhớ tới và khấn vái Lâm Mặc Nương nên được cứu thoát nạn chết. Từ đó, người ta tôn xưng cô Lâm là “thần nữ” hoặc “long nữ”.  

* Năm 16 tuổi, có một lần, cô Lâm bị té xuống giếng sâu, người nhà kinh hãi hô la cầu cứu. Khi đứ được cô lên, thì lạ lùng thay, mình mẫy của cô đã chẳng bị ướt chút nào, mà hai tay cô lại có cầm hai tấm “Đồng phù” (bùa vẽ trên miếng đồng). Từ khi cô được hai tấm bảo vật nầy, cô chăm chú rèn luyện theo đó. Chẳng bao lâu, cô trở nên thần thông quảng đại pháp lực vô biên, có thể trị lành muôn bệnh nan y. Cô xin đi vân du bốn phương để cứu đời. Thanh danh của cô ngày càng lừng lẫy, thiên hạ đều biết.

* Năm 17 tuổi, có lần chiếc tàu buôn đang vào cập bến cảng My Châu, thì chẳng may sóng to ập đến, làm chìm. Tiếng hô la cầu cứu inh ỏi. Cô Lâm xuất hiện, nhắm hương chiếc tàu ném ra một số cỏ , khi cỏ chạm nước bổng hóa thành những khúc cây to nổi trên mặt nước. Số thuyền nhân nhờ bám vào đó mà được cứu thoát chết, cảm tạ ân đức “Thánh Mẫu” khôn cùng.

* Năm 19 tuổi, một ngày nọ cô Lâm đang nằm ngủ trên ghế bố, mộng thấy cha và anh cô đi trên chiếc thuyền giữa biển cả, bị sóng to gió lớn đánh chìm. Cô phi thân bay đến chỗ nạn, miệng ngậm dây nịt của cha tay xách người anh bay vào bờ. Nhưng ngay lúc ấy có tiếng kêu của bà mẹ, cô hốt hoảng mở miệng và buông tay ra thì cha và anh cô bị rơi xuống biển. Tỉnh giấc, cô khóc lóc kể lại sự việc chẳng lành ấy cho mẹ nghe, nhưng bà mẹ cho rằng việc mộng mị không đáng tin. Không ngờ, chỉ mấy ngày sau là gia đình nhận được hung tín là cha và anh cô đã bị đắm tàu, đúng vào ngày giờ cô nằm mộng. Gia đình chỉ còn có cách đến chùa lễ Phật cầu siêu cho cha và anh cô thôi.

* Năm 20 tuổi, khu vực Bồ Điền lâm vào cảnh đại hạn, trải qua thời gian dài mà không có giọt mưa nào. Ao hồ giếng nước đều khô cạn, cây cối chết khô , người và súc vật cũng bị chết rất nhiều. Cô Lâm đến dinh quan huyện, đề nghị tổ chức lễ “cầu mưa” do cô chủ trì. Sau buổi lễ, quả nhiên có mưa rào đổ xuống, cứu cả vùng đất khô hạn thoát khỏi nạn tai. Người người đều không ngớt xúm đến bái tạ thâm ân của “Thánh Mẫu”.

* Năm 22 tuổi, ở phương tây bắc xuất hiện hai tên ác thần, tên là “Thiên lý nhãn” và “Thuận phong nhĩ”, làm hại rất nhiều dân chúng. Sau đó, hai tên nầy bị “Thánh Mẫu” thu phục tại núi Đào Hoa, cải tà qui chánh, thành ra hai tên cận vệ tả hữu của Thánh Mẫu. Từ đó, Ngài có thêm lực lượng hùng mạnh để cứu độ nhiều người. Hiện nay, chúng ta thấy trong các Miếu Thờ Thánh Mẫu đều có hai tượng đứng hai bên Thánh mẫu, đó chính là Kim Vương Thiên Lý Nhãn và Liễu Vương Thuận Phong Nhĩ đó vậy. Tượng Thiên Lý Nhãn mặt xanh có nanh vuốt ghê sợ, có năng lực nhìn xa ngàn dậm, thấy được người bị nạn để cứu. Còn Thuận Phong Nhĩ mặt đỏ, cũng có nanh vuốt , thì tai có thể nghe được ngàn dậm, nghe tiếng cầu cứu của nạn nhân. Hai vị nầy ở hai bên , giúp Thánh Mẫu thấy nghe chúng sanh bị nạn mà ứng hiện đến cứu giúp.

* Năm 26 tuổi, Phước Kiến bị mưa gió liên miên từ xuân sang hè, nước lũ tràn lan, cuốn trôi nhà cửa súc vật, tổn hại rất lớn. Còn dân chúng thì không còn gạo để ăn, không có nơi chốn để ở. Quan địa phương đến trình xin Thánh Mẫu cứu giúp. Mẫu bảo:- “Lành thay ! Lành thay ! Trời gieo rắc tai họa nầy là bởi do vì con người đã gây tạo ra quá nhiều tội ác. Nay ta phải thay dân mà chịu tội với Trời vậy !”. Nói rồi, bà lập đàn đốt hương cúng tế thiên địa, xin gánh lấy tất cả tội lỗi của người, miễn cho chúng sanh tai nạn thảm khốc nầy !”. Sau đó, quả nhiên có trận gió nổi lên thổi tan hết mây mù đen phủ bầu trời, mưa ngừng gió lặng. Chợt thấy có một con giao long từ dưới nước bay vọt lên trời biến mất. Dân chúng thoát khỏi nạn lớn, cúng tạ ân đức cao dày của Thánh Mẫu.

*
* *

*Năm Ung Hy thứ tư đời vua Tống Thái Tông (năm 987) , ngày mùng tám tháng 9, Lâm Mặc Nương nói với người nhà rằng:- “Ngày mai là Tiết Trùng Dương (9/9), ta sẽ “lên cao”, rời bỏ trần gian bụi bậm ồn ào nầy !”. Mọi người nghe nói, cứ nghĩ rằng, theo phong tục dân gian, ngày Trùng Cửu (9/9) người ta thường hay leo núi để du ngoạn, đó là chuyện thường tình, chẳng ai lưu ý.
Sáng sớm hôm ấy (9/9), Lâm Mặc Nương tắm gội sạch sẻ, mặc quần áo mới, đi ra ngoài. Khi leo lên đến đỉnh núi ở My Châu, bổng nhiên nàng đạp lên mây mà đi, giống như đi trên đất liền vậy. Lúc ấy, có mây năm sắc giăng đầy, hào quang sáng rực, một đôi Kim Đồng Ngọc Nữ hiện ra, nghênh tiếp Lâm Mặc Nương bay vào trời xanh mất dạng.
*
* *
Người làng nhớ ơn Bà, xây dựng Miếu Thờ, tôn xưng Bà là “Thông Hiền Linh Nữ”.

Năm Tuyên Hòa thứ tư đời vua Tống Vi Tông, ông Doãn Địch phụng mệnh vua đi sứ sang nước Cao Ly (Triều Tiên). Ông bị sóng to gió lớn nổi lên suýt nhận chìm thuyền ngoài biển, may nhờ có Thánh Mẫu hiện ra bảo hộ mới thoát chết, hoàn thành nhiệm vụ trở về bình an. Do đó, Bà được triều đình sắc phong lần thứ nhất là Thần Nữ. Nhà vua lại truyền chỉ xây dựng ngôi Miếu Thờ và sắc ban cho tấm biển đề “Thuận Tế Cung” .

-Năm thứ năm Tống Tuyên Hòa phong làm “Nam hải Thần Nữ”.
-Đời Tống Cao Tông phong làm “Sùng Phước Phu Nhân”.
-Năm Thiệu Hưng thứ 29 đời Tống Cao Tông lại tái phong “Sùng Linh Huệ Chiêu Ứng Phu Nhân”
-Tống Quang Tông phong làm “Linh Huệ Phi”.

*Năm Chí Nguyên thứ 18 đời vua Nguyên Thế Tổ, Thánh Mẫu hộ độ cho đoàn thuyền vận lương bình an, nên nhà vua phong làm “Hộ Quốc Minh Trước Thiên Phi” .

* Năm Hồng Võ thứ nhất đời Minh Thái Tổ , Thánh Mẫu hộ độ cho đoàn thuyền chở đá xây cung điện được bình an, nên vua Minh Thái Tổ phong cho bà là “Thiệu Ưng Đức Chính Linh Ứng Tử--Tế Thánh Phi Nương Nương”.

*Đời Minh Thành Tổ gia phong “Hộ Quốc Tý Dân Phổ Tế Thiên Phi” .

*Triều đại nhà Minh, Thánh mẫu nhiều lần hiển linh cứu nạn vô số ngư dân vùng Thiệu Ưng. Năm Vĩnh lạc đời Minh thành Tổ , hiển linh cứu nạn cho Bá Hộ Hầu Quách Bảo. Năm Thành Hóa đời vua Minh Hiến Tông, hai lần hiển linh cứu nạn cho Cấp Sự Trung Trần Tuân đi sứ sang Nhật Bản. Năm Gia Tĩnh thứ 13 đời Minh Thế Tông hiển linh cứu nạn cho Cấp Sự Trung Tứ minh Trần Khản khi đi sứ sang đảo Lưu Cầu.

*Ngoài ra, nhiều đoàn tàu đánh cá vùng duyên hải Phước Kiến, được Thánh mẫu hiển linh cứu thoát hải nạn trở về, đều đóng góp trùng tu Miếu Thờ rất khang trang đẹp đẽ.

*Cuối đời Minh đầu nhà Thanh, Ông Trịnh Thành Công suất lãnh bộ hạ, quyết vượt biển Việt hải để thu phục Đài Loan. Khi đoàn thuyền đi đến Lộc Nhĩ Môn thuộc Đài Nam, chẳng may gặp lúc nước ròng bất ngờ , không thể tới lui được. Ông Trịnh khấn vái Thánh Mẫu thì được bà hộ độ cho nước triều dâng lên nhanh, ông mới đánh thắng giặc Hà Lan ,chiếm lại được đảo Đài Loan. Vì thế, vào tháng chín năm Vĩnh Lịch thứ 16, ông huy động lực lượng xây dựng ngôi Miếu thờ Thánh Mẫu tại Lộc Nhĩ (đây là ngôi miếu thờ bà trước tiên ở vùng Đài Loan) để đáp tạ công đức cứu nạn khi trước.
*Năm Khang Hi thứ 19, phong bà là “Hộ Quốc Tý Dân Diệu Ứng Thiệu Ưng Hoằng Nhân Phổ Tế Thiên Phi”.

*Năm Khang Hi thứ 22, quan Tĩnh Hải hầu Thi Lang tướng quân khi tấn công Đài Bành, được Thánh Mẫu “thần linh hiển ứng” hộ trợ ông lập được kỳ tích, nên khi ban sư trở về triều, ông đã khải tấu cho vua sự việc đó. Do vậy, năm Khang Hi thứ 23 , nhà vua sắc phong Lâm Mặc Nương làm “THIÊN HẬU”. Sau lại gia phong làm “THIÊN THƯỢNG THÁNH MẪU” và hạ chiếu cho các quan địa phương Mu Châu lo việc cúng tế hàng năm trọng thể, lại xuất công khố trùng tu Miếu Thờ.

*Đời Thanh Thánh Tổ, gia phong Ngài làm “THIÊN HẬU NGUYÊN QUÂN THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG”.

*Năm Ung Chính thứ tư đời nhà Thanh, lại xuất công khố trùng tu Miếu Thờ và phái sứ giả thay mặt cho vua đến My Châu cúng tế.

*Có vô số Thiên Hậu Cung ở khắp mọi nơi, nhưng đặc biệt về quy mô và tính lịch sử lâu đời thì chỉ có ngôi Miếu ở My Châu Bồ Điền Phước Kiến là to lớn và xưa nhất, được xây dựng từ năm Ung Hi thứ tư đời bắc Tống, đến nay đã trải qua hàng ngàn năm . Khi mới xây dựng, thì cũng nhỏ thôi, nhưng trải qua các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh nhiều lần trùng tân, nên trở thành vô cùng phú lệ đường hoàng. Tiếng tăm của nó đã lừng vang khắp nơi, xưa nay xa gần đều nghe đến đại danh của ngôi “danh lam thắng tích ở My Châu” nầy.

*Ngày thánh đản của Thánh Mẩu là ngày hai mươi ba tháng ba âm lịch. Vào ngày nầy, tất cả ngư dân khắp nơi đều tề tựu về My Châu để triều bái Thánh Mẫu. Riêng ở đảo Đài Loan từ xưa đã có thành lập một đoàn người đại diện đi cúng tế, lấy tên là “Đoàn hành hương cúng tế Thánh mẫu ở My Châu”, có năm lên đến cả ngàn người.
*Ngày nay , Đài Loan vẫn giữ phong tục thờ cúng Thánh Mẫu tổ chức hằng năm với “lễ rước tượng Bà đi vòng quanh đảo” vào ngày mười chín tháng ba âm lịch.

Thái Thượng Lão Quân

Thái Thượng Lão Quân


Lão Tử tức Thái Thượng Lão Quân , họ Lý tên Nhĩ, tự là Bá Dương, hiệu Lão Đam, là một vị tư tưởng gia nổi tiếng vào những năm cuối thời đại Xuân Thu. Trong Đạo Giáo, được tôn là vị Tổ sáng lập nên tín đồ xưng Ngài là “Đạo Đức Thiên Tôn”, “Thái Thượng Lão Lý Quân”, “Thái Thượng Đạo Tổ”, “Vô Cực Lão Tổ”, “Tam Thanh Đạo Tổ”, “Lão Quân Gia”, “Vô Cực Chí Tôn”, “Vô Cực Thánh Tổ. Ngài sanh ngày mười lăm tháng hai năm Canh Thìn , tức năm thứ mười đời vua U Vương nhà Châu (Chu), người ở lý (xóm ấp) Khúc Nhân, làng Lại, huyện Khổ , thuộc nước Sở. (hiện nay là Lộc Ấp (鹿邑) thuộc tỉnh Hà Nam-NT)

*Chú thích:- Đây là dịch theo nguyên tác nầy, còn tiểu sử của Ngài vẫn còn nhiều tranh cãi, mong quí vị lưu ý cho—NT)

*Truyền thuyết xuất sanh của Lão Tử hết sức thần kỳ. Theo các sách của Đạo giáo, Ngài đã có mặt từ thời viễn cổ rất xa trải qua nhiều lần của “chu kỳ tám mươi mốt vạn năm” (?) rồi (810.000 năm), đời nầy thác thai vào Huyền Diệu Ngọc Nữ, bà mang thai suốt 81 năm, vào giờ Mão ngày rằm tháng hai Ngài đã từ hông của bà sanh ra ở nước Sở. Vì mang thai quá lâu, nên lúc sanh Ngài ra thì đầu tóc đã bạc phơ, nên có tên là “Lão Tử” (đứa trẻ đầu bạc” . Ngài ra đời dưới gốc một cây lý, vừa sanh ra đã biết nói, chỉ cây lý mà bảo rằng :- “Lý , chính là họ của ta đó”.

*Theo một truyền thuyết khác thì Lão Tử sanh ra đầu đã bạc mà có hiệu là Lão Tử, chính là hóa thân của Nguyên Thủy Thiên Vương thành Thần Bảo Quân để tế độ các thiên thần, chư Tiên phải nghe lệnh Ngài. Đời Châu Văn Vương thì Ngài làm “quan giữ kho” của nhà vua. Đến đời Vũ Vương được thăng chức Trụ Hạ. Về sau, thấy nước Châu ngày càng suy vi, nên đến đời Chiêu Vương, Ngài từ quan về ở ẩn. Ngài là nhà tư tưởng lớn thời kỳ cuối đời Xuân Thu, được Đạo giáo tôn làm Tổ Sư khai sáng của đạo Lão.


*Ở Bắc Lộc núi Chung Nam tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc có một cái đài Lâu Quan nổi tiếng mà truyền thuyết là nơi giảng kinh của Thái Thượng Lão Quân ngày xưa. Đài Lâu Quan nầy ở nơi có phong cảnh rất đẹp, dựa lưng vào núi nhìn ra dòng nước , được người xưng tặng là “ Động thiên phước địa”. Đây là thánh địa của Đạo giáo, lịch sử nói rằng đài Lâu Quan nầy đã có từ lâu hơn 2.500 năm trước.Đời nhà Châu , vị “Quan Giữ Ải” tên là Doãn Hỉ ở cửa ải Hàm Cốc đã cho dựng ở đây một cái đài bằng tranh cỏ, gọi là “Thảo Lâu Quán” , để quan sát theo dõi tinh tú trên trời. Truyền thuyết nầy nói rằng, lúc Lão Tử tuổi già từ quan cỡi thanh ngưu đi ngang qua cửa Hàm Cốc , vị quan giữ thành Doãn Hỉ, là người ham tu đạo, sở học rất giỏi về tinh tú thiên văn, biết Lão Tử là vị thoái quan ẩn sĩ, nên khẩn khoản xin Ngài viết sách để lưu lại cho đời sau. Do đó, Lão Tử viết bộ sách năm ngàn chữ, gọi là sách “Lão Tử” hay còn gọi là “Đạo Đức Kinh”.

* Thái Thượng Lão Quân đã viết mười hai bộ kinh điển, nổi tiếng hơn cả là “Tây Thăng Kinh”, “Hóa Hồ Kinh”, “Đạo Đức Kinh” v.v…mà trong đó, quyển “Đạo Đức Kinh” được xem là quí giá nhất, đã xuất bản in ấn hàng triệu quyển trên thế giới hiện nay. “Đạo Đức Kinh” có 81 chương, chia thành hai quyển thượng, hạ. Trong sách nầy, Lão Tử cho rằng , vũ trụ vạn vật có một cái gốc chung mà Ngài gọi là “ĐẠO” hoặc “VÔ”, nói rộng là những triết lý “Đạo pháp tự nhiên” và “Thanh tĩnh vô vi” hay “Trường Sanh Cửu Thị”, là những giáo lý giáo nghĩa căn bản của đạo Lão. Vấn đề mà Ngài quan tâm bàn đến là:- làm sao để xóa bỏ những tranh chấp trong xã hội, làm thế nào để cuộc sống con người được an ổn hạnh phúc. Từ đó, Ngài đề ra pháp thực hành là, con người nên sống theo cái tính tự nhiên và tính tự phát của “Đạo”, nhờ vậy mà ngăn ngừa được những tai hại của chiến tranh , trở lại được với tâm cảnh và hình thái sinh hoạt “chân thành vốn sẵn” của loài người, đạt kết quả là thiên hạ sẽ “vô vi nhi trị” (vô vi mà an thiên hạ).

Trong bá gia chư tử thời Tiên Tần, Lão Tử là vị được xem là đứng đầu trong hệ thống các luận thuật về “nguồn gốc vũ trụ”. Ngài lấy “ĐẠO” làm căn bản khởi nguyên của vũ trụ. Lý thuyết ấy được xem là nền tảng cơ bản cho các học giả đời sau ứng dụng và phát triển , nó trở thành một nền triết học mang tính “mẫu mực” cho đất nước chúng ta (Trung Quốc) đến tận ngày nay.

*Lão Tử được đương thời xem là tinh hoa ưu tú. Sử sách có ghi lại mẫu chuyện hết sức tiêu biểu là, đức Khổng Phu Tử đã đến tham vấn Lão Tử về “LỄ”.
(Xem phần phụ lục ở sau)

*Học thuyết về “Đạo” của Lão Tử được các triết gia sau thời Xuân Thu Chiến Quốc vận dụng và truyền bá mạnh mẽ. Trong số những người kế thừa, có Ngài Trang Tử là nổi bật nhất. Sau thời Đông Hán, có một số vị truyền nhân của Phật giáo và một số phương sĩ của tôn giáo ngoại lai có uy tín lớn, đã đem tư tưởng học thuyết của Lão Tử pha trộn với những tín điều, nghi thức của Vu Thần Giáo (đạo đồng bóng trạng cốt) làm thành một tôn giáo mới gọi là “Đạo giáo”.

*Cuối thời Đông Hán, có nhân vật Trương Đạo Lăng sáng lập ra phái “Ngũ đẩu mễ” (n
ghĩa là năm lít gạo, gọi tên theo việc người muốn gia nhập vào phái nầy phải đóng góp năm lít gạo) . Ông Lăng nói rằng đã được chính Thái Thượng Lão Quân chỉ dạy. Do đó, Lão Tử từ chỗ là Thủy Tổ của “Lão (Đạo) giáo” một cách danh chính ngôn thuận bị Trương Đạo Lăng biến thành “Đại Tôn” (giáo chủ) của một tôn giáo thế gian và tôn xưng Ngài thành Lão Quân hay Thái Thượng Lão Quân. Danh xưng nầy xuất hiện lần đầu trong quyển “Lão Tử tưởng nhĩ chú” của Trương Đạo Lăng và sau thời Bắc Ngụy, đã phổ biến mạnh mẽ trong quần chúng dân gian.

*Đầu tiên thì Lão Tử là vị thần tối cao trong Đạo giáo, nhưng từ sau thời Lục Triều, đã bị giáng cấp xuống hàng thứ ba (ở Thái Thanh Cung), đứng sau Thượng Thanh Cung Nguyên Thủy Thiên Tôn và Ngọc Thanh Cung NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Ba vị nầy được tôn xưng là “TAM THANH” của Đạo giáo.

*Năm Càn Phong thứ nhất đời Đường Cao Tông phong Lão Quân là “Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế” và bắt mọi người từ thứ dân đến quan lại chư hầu đều phải học “Đạo Đức Kinh”, thậm chí lấy Đạo Đức Kinh làm nội dung chính trong các kỳ thi lớn trong triều đình.

*Đời Tống Chân Tông gia phong Lão Quân làm “Thái Thượng Lão Quân Hỗn Nguyên Thượng Đức Hoàng Đế Lão Tử” .

*Đời Đường Minh Hoàng (tức Lý Long Cơ) năm Thiên Bảo thứ 13 gia phong LQ làm “Đại Đạo Kim Khuyết Huyền Nguyên Thiên Hoàng Đại Đế” và xuống lệnh cho các Châu, Huyện phải lập Miếu Thờ Huyền Nguyên Hoàng Đế. Ngoài ra vua Minh Hoàng còn cho xây dựng Thái Thanh Cung rộng 800 mẫu (mẫu ta) để thờ LQ, ngày nay vẫn còn điện chính do đời nhà Thanh trùng tu. Trong điện có tượng LQ thếp vàng cao hơn một trượng, hai bên là hai hàng đại đệ tử như là:- Nam Hoa Chân Nhân (Trang Tử), Vô Thượng Chân Nhân (Doãn Hỉ) v.v…

****

Như vậy, gốc từ chỗ Lão Tử là một vị ẩn sĩ vô danh, được người biết đến qua học thuyết “vô vi”. Học thuyết nầy nhanh chóng được phổ biến rộng rãi, kèm theo những truyền thuyết có tính chất “thần thánh hóa” mà thành ảnh hưởng mạnh mẽ như ngày nay. Thêm nữa, Miếu Thờ Ngài hầu hết đều tọa lạc ở những nơi biệt lập, có phong cảnh sơn thủy hữu tình theo quan niệm thanh tĩnh vô vi của Ngài, đã tạo sự thu hút số lượng rất lớn du khách và người hâm mộ đến tham quan ngày càng đông.
Thành tố “Đạo” đầu tiên là lý thuyết mấu chốt của tín ngưỡng Đạo giáo, đã được phát triển thành “Ông Tiên đắc đạo—Trường sanh bất lão”. Đây là cảnh giới cao nhất của sự chứng đắc trong Đạo giáo mà tất cả tín đồ mong mỏi đạt được.

Lại có một cung điện khác là “Đâu Suất Cung” mô phỏng theo “Đâu Suất Thiên Cung” (tưởng tượng) mà xây dựng. Truyền thuyết nói, Đâu Suất Thiên Cung là nơi ở của Thái Thượng Lão Quân. Trong Đâu Suất Cung, thờ tòa “Tam Thánh” là :- Thái Thượng Lão Quân, Tổ sư Lữ Thuần Dương và Tổ sư Khưu Trường Xuân.

*Hầu hết những Miếu thờ nơi khác thì thờ tượng Lão Tử nơi Tam Thanh Điện. Gọi là Tam Thanh tức có ba tòa Ngọc, Thượng và Thái Thanh để thờ ba vị NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ , Nguyên Thủy Thiên Tôn , Thái Thượng Lão Quân .

*Do vì Đạo giáo có dạy về cách “luyện tiên đan” Và “diên hống (cống)” (nước miếng tiên) để trưởng dưỡng “hỏa hầu” (thuật ngữ của Tiên gia) , nên trong dân gian đã chọn Thái Thượng Lão Quân , ông chủ của “lò bát quái”, làm “LÔ THẦN” (thần lò bếp) hoặc “DIÊU (Dao) THẦN” (thần lò nung ngói gạch gốm sứ). Từ đó, những ngành nghề hiện nay có liên quan đến “lò, bếp, nấu nung, luyện cán…) đều thờ Thái Thượng Lão Quân làm Tổ Sư, với ý là nhờ vào oai lực của LQ để trấn yểm hạn chế bớt sự tác động của Thái Tuế.

*Theo “Sử Ký” của Tư Mã Thiên, thì niên đại về Lão Tử là ở vào thời kỳ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, tồn tại trên dưới 100 năm.

Từ khi Lão Tử được tôn xưng là Thái Thượng Lão Quân , Ngài đã trở thành một vị vua chí cao vô thượng của cõi trời, thống lãnh cả hai ban thần thánh là “Đạo” và “Đức” với danh hiệu tôn quí “Thái Thượng Hỗn Nguyên Đạo Đức Thiên Tôn” hoặc “Hoàng Lão Quân.

*Ngày vía của đức Thái Thượng Lão Quân là ngày rằm tháng hai âm lịch.

-------------------------------------------------------

(Ở Thanh Nguyên Sơn , Tuyền Châu, có một thạch tượng đức LQ, chạm khắc đời Tống, cao 5,63 m, ngang 8,01 m, sâu 6,85 m, chiếm diện tích 55 mét vuông.)

*PHỤ LỤC:-

Khổng Tử đến Chu, muốn hỏi Lão Tử về lễ , Lão Tử nói :
- Những người ông nói đều tan xương nát thịt cả rồi , chỉ còn lời nói của họ thôi ( Khổng Tử chủ trương theo lễ nghi của các vua đời trước. Lão Tử bác lại ý kiến đó) . Vả lại , người quân tử gặp thời thì xe ngựa nghênh ngang; không gặp thời thì như cỏ bồng xoay chuyển . Tôi nghe nói : “Người buôn giỏi thì biết giấu của báu , khiến người ta thấy dường như không có hàng , người quân tử có đức tốt thì diện mạo dường như ngu si” (Hai câu này đều trong Đạo Đức Kinh ). Ông nên bỏ cái khí kiêu ngạo cùng cái lòng ham muốn nhiều , cái vẻ hăm hở cùng cái chí tham lam đi . Những cái ấy đều không có ích gì cho ông . Tôi chỉ bảo ông có thế thôi .
Khổng Tử ra đi , bảo học trò :
- Con chim , ta biết nó biết bay ; con cá ta biết nó biết lội ; con thú , ta biết nó biết chạy . Đối với loài chạy , thì ta có thể dùng lưới để săn ; đối với loài lội thì ta có thể dùng câu để bắt ; đối với loài bay thì ta có thể dùng tên bắn ; đến như con rồng cưỡi mây cưỡi gió lên trời , ta không sao biết được ! Hôm nay gặp Lão Tử , ông ta có lẽ là con rồng chăng ?
Lão Tử trau dồi đạo đức , học thuyết của ông cốt ở chỗ giấu mình , kín tiếng . Ông ở nhà Chu đã lâu , thấy nhà Chu suy bèn bỏ đi . Đến cửa quan , quan coi cửa là Doãn Hỷ nói :
- Ông sắp đi ẩn rồi , hãy gắng vì ta mà làm sách .
Rồi Lão Tử bèn làm sách ,gồm hai thiên : thượng , hạ , nói về ý nghĩa của “đạo” và “đức” hơn năm nghìn chữ . Đoạn ra đi, không ai biết chết như thế nào .


Nguyên Thủy Thiên Tôn

NGUYÊN THỦY THIÊN TÔN



*Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn còn gọi là “Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn”, là vị tối cao trong Tam Thanh, cũng là vị Tôn Thần hạng nhất của Thần Tiên Đạo Giáo. Theo “Lịch đại thần tiên thông giám” tôn xưng Ngài là “Vị Tổ chủ trì cõi trời”. Địa vị của Ngài tuy cao, nhưng lại xuất hiện muộn hơn Thái Thượng Lão Quân.

Hồi đầu của Đạo giáo không thấy nói đến Nguyên Thủy, trong “Thái Bình Kinh”, Tưởng Nhĩ Chú” cũng đều không thấy ghi tên Ngài, kể cả trong thần thoại xưa Trung Quốc cũng không thấy nói đến hành trạng Ngài. Danh xưng Nguyên Thủy xuất hiện sớm nhất trong “Chẩm trung thư” ghi là “Trước lúc hổn độn chưa phân rõ (thái cực), đã có “tinh hoa của trời đất” hiệu là “Nguyên Thủy Thiên Vương” sẵn bên trong, sau phân hóa thành hai phần (lưỡng nghi), Nguyên Thủy Thiên Vương ở phía trên cõi trời, ngẫng lên hút thiên khí, cúi xuống uống địa tuyền (suối đất ) trải qua vô số kiếp , cùng với Thái Nguyên Ngọc Nữ thông khí kết tinh mà sanh ra Thiên Hoàng Tây Vương Mẫu. Thiên hoàng sanh ra Địa Hoàng, Địa Hoàng sanh ra Nhân Hoàng, tiếp tục sanh ra con cháu là Bào Hi, Thần Nông. Cho nên bảo rằng : “Phía trên Đại La có bảy ngọn núi báu gọi là Huyền Đô Ngọc Kinh, có ba cung. Thượng cung là nơi ở của Bàn Cổ Chân Nhân, Nguyên Thủy Thiên Vương và Thái Thái Thánh Mẫu”. Như vậy, từ đây mới có danh xưng Nguyên Thủy Thiên Vương.

Đến thời kỳ Nam Bắc triều, trong sách “Chân linh vị nghiệp đồ” của Đào Hoằng Cảnh nước Lương, mới ghi danh hiệu Nguyên Thủy Thiên Tôn. Sách nầy nói rằng vị thần tối cao làm chủ tất cả là “Thượng thai hư hoàng đạo quân”, hiệu là Nguyên Thủy Thiên Tôn, cũng xưng là Ngọc Thanh Cảnh Nguyên Thủy Thiên Tôn. Nhưng trong sách nầy lại cũng có ghi vị “Nguyên Thủy Thiên Vuơng” được xếp vào vị trí thứ tư, gọi là “Tả vị đệ tứ thần”.

*Sách “Kinh Tịch Chí Tứ” đời Tùy giải nghĩa đặc tính của Nguyên Thủy Thiên Tôn và chư thần, nói rằng Nguyên Thủy Thiên Tôn sanh trước khi có trời, cho Ngài là “Thể của trời , còn mãi không mất. Mỗi khi mở ra trời đất, nhận cái đạo thể bí mật thần diệu đó mà sinh trưởng. Trời đất chẳng phải cùng có một lần, mà phải qua các trình tự:- diên khang, xích minh, long hán, khai hoàng, trải suốt bốn mươi triệu năm . Hàng thượng phẩm của chư Tiên có Thái Thượng Lão Quân, Thái Thượng Trượng Nhân, Thiên Hoàng Chân Nhân, Ngũ Phương Ngũ Đế và các Quan Tiên”.

Các đạo sĩ đời Tùy lại xưng Ngài là “Lạc Tĩnh Tín” . Như vậy, bắt đầu từ đời Tùy, Đường mới có xuất hiện các chuyện thần thoại nói về các vị thần tối sơ và nêu lên tín ngưỡng của tín đồ Đạo giáo đối với Nguyên Thủy Thiên Tôn.

*Liên quan đến danh xưng Nguyên Thủy Thiên Tôn , trong “Sơ Học Ký” quyển thứ hai mươi ba có dẫn theo “Thái Huyền Chân Nhất bản tế kinh” giải thích:-“Không gì tôn kính hơn, không gì cao cả hơn, là bậc duy nhất khởi đầu cho muôn vật, nên có tên là “Nguyên Thủy” , chuyển vận cái “Đạo” hết sức tôn quí, lại thường cai quản nhị thanh (thượng thanh và thái thanh) , ở trên các trời, nên xưng là “Thiên Tôn”.

*Sách “Lịch đại thần tiên thông giám” nói:- “Nguyên chính là gốc, thủy chính là khởi đầu, tức là khí tiên thiên vậy”. Điều đó nói lên Nguyên Thủy là nguồn gốc tối sơ của muôn vật, ở trên tất cả thần tiên, gọi là “Thiên Tôn” (tôn quí hơn cả trong hàng chư thiên).

* Căn cứ vào Đạo Kinh thì :- “Nguyên Thủy Thiên Tôn vốn là “Khí tự nhiên”, có trước vũ trụ vạn vật. Thể của nó còn mãi chẳng mất, cho dù trời đất có hủy diệt thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến sự tồn tại của nó. Cứ mỗi lần hình thành “trời đất mới” thì Thiên Tôn lại giáng lâm nhân thế, khai mở đạo pháp áo bí để độ chúng sanh. Chỗ độ người nầy là những phẩm cao nhất của thiên tiên, kể cả “Thái Thượng Lão Quân”, “Thiên Chân Hoàng Nhân”, các thần tiên năm phương cõi trời. Những lần hình thành “trời đất mới” đều có niên hiệu như là:- “Diên Khang”, “Xích Minh”, “Long Hán”, “Khai Hoàng” v.v…Mỗi niên hiệu kéo dài 41 triệu năm. Do đó, đức Nguyên Thủy Thiên Tôn ở nơi tầng cao nhất là cõi “Đại La Thiên” trong 36 cõi trời. Theo Ngọc Kinh diễn tả là, đất bằng vàng ròng , thềm bậc là ngọc thạch. Trong cung có bảy báu, ngọc quí, các vị Tiên Vương, Tiên Công, Tiên Khanh, Tiên Bá, Đại phu Tiên cùng ở điện trung ương và điện hai bên. Hình thái nầy là do người thế gian mô phỏng theo sinh hoạt của vua chúa trần gian mà tả ra.


*Như vậy, ta thấy quá trình biến hóa gốc từ “nguyên thủy” vốn đầu tiên là thuật ngữ triết học của Đạo gia, về sau mới được “thần hóa” dần dần trở thành Vị Tối Cao của các thần trong Đạo giáo, đứng đầu Tam Thanh. Nếu nhìn ở giác độ lịch sử thì việc chuyển từ quan điểm cá nhân của đạo gia trở thành quan điểm chung của đạo giáo cũng là điều dễ hiểu, cho việc tạo thành “Đấng tối sơ duy nhất” nầy.

*Cũng theo “Lịch đại thần tiên thông giám” mô tả về Nguyên Thủy Thiên Tôn “hào quang bao quanh đầu, toàn thân có 72 sắc”, cho nên trong điện thờ “Tam Thanh”, hình tượng Nguyên Thủy đầu có vầng hào quang, tay cầm viên linh đan màu đỏ; hoặc tay phải như đang bưng một vật gì còn tay trái thì ném cái gì đó ra ngoài. Hình tượng nầy mang ý nghĩa “trời đất chưa thành hình, còn hỗn độn chưa mở ra, muôn vật chưa sanh ra” để diễn ý “trạng thái vô cực” và “thời hỗn độn chưa phân rõ âm dương” ở vào đại thế kỷ thứ nhất.
Cho nên về sau, Đạo gia lấy ngày “ Đông Chí” mang nghĩa “dương sanh âm giáng, ngày ngắn đêm dài” làm ngày thánh đản của đức Nguyên Thủy Thiên Tôn .
Thời gian trải qua khá lâu, sự sùng bái Ngài được sâu rộng, trên là từ vua chúa , dưới đến thứ dân, không ai là chẳng thành tâm lễ lạy.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/1/1e/YuanshiTianzun.jpg


Nguyên Thủy Thiên Tôn

Nguyên Thủy Thiên Tôn còn được tôn xưng là Nguyên Thủy Thiên Vương 」、「Ngọc Thanh Tử Hư Cao Thượng Nguyên Hoàng Thái Thượng Đại Đạo Quân , là Ông Tổ của Đạo Giáo. Ngài đã hiện hữu từ lúc “Thái nguyên” (lúc chưa mở ra vũ trụ vạn vật) cho nên được xưng là “Nguyên Thủy” (bắt đầu).

Theo truyền thuyết, lúc “Thái cực” chưa phân thành “Lưỡng nghi” , trời đất mặt trời mặt trăng chưa có, đã hiện hữu một vị “Bàn Cổ Chân Nhân”, là tinh hoa đầu tiên của vũ trụ, tự xưng là Nguyên Thủy Thiên Vương .

Trải qua thời gian tám kiếp số, mới phân thành hai nghi âm dương. Khi ấy, Nguyên Thủy Thiên Vương trụ tại Ngọc Kính Sơn, phía trên của trung tâm. Ngài đã hấp thu tinh hoa của khí trời và suối đất (thiên khí địa tuyền) mà sống.

Thông thường, dân gian hay lầm lẫn cho rằng Nguyên Thủy Thiên Tôn cùng với Ngọc Hoàng Thượng Đế là một vị, kỳ thực không phải thế.

*Căn cứ vào sách “Đào Hoành Cảnh Đích Chân Linh Vị Nghiệp Đồ”, chia các thần thành bảy cấp, để Nguyên Thủy Thiên Tôn ở chính vị của “Thượng Thanh”, Thái Thượng Lão Quân ở chính vị của “Thái Thanh”, còn Ngọc Hoàng Thượng Đế ở trung vị thứ nhất của cung thứ ba “Ngọc Thanh”.

Nói cách khác, trên Ngọc Hoàng Thượng Đế còn có Nguyên Thủy Thiên Tôn và Thái Thượng Lão Quân , mà hai vị nầy khác nhau, nên chủ tể chân chính của trời đất muôn vật phải là Nguyên Thủy Thiên Tôn .

Thế gian đem Nguyên Thủy Thiên Tôn cho đồng với Ngọc Hoàng Thượng Đế chẳng qua là tại tinh thần kính trời sợ thần, e rằng thiếu sự tôn kính mà thôi.

Phong tục dân gian cứ vào đêm trừ tịch, cử hành nghi thức cúng lễ Nguyên Thủy Thiên Tôn tại các điện thờ , bắt đầu từ 11 giờ 30 phút đêm ấy, số người tham dự quá đông, kẻ đến sau không thể chen chân vào lễ lạy được.

*Ngày vía của Nguyên Thủy Thiên Tôn là ngày mùng một tháng giêng.



Tích Khác

Nguyên Thủy Thiên Tôn hay Nguyên Thỉ Thiên Tôn (chữ Hán 元始天尊) là một vị thần tối cao Đạo giáo Trung Quốc, đứng đầu trong Tam Thanh với ngôi vị Ngọc Thanh. Hai vị kia là Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (tức Thái Thượng Lão Quân)

Mục lục

[ẩn]

[sửa] Thần thoại

Theo thần thoại Trung Quốc, thuở sơ khai chưa có trời đất, trước cả hỗn mang, chỉ mới có cái nguyên khí huyền bí, có vị Nguyên Thuỷ Thiên Vương, Nguyên Thuỷ nghĩa là cái gốc đầu tiên. Nguyên Thuỷ Thiên Vương chưa phải hẳn là vị thần, mà chỉ là nguyên lý sơ khai. Khi hình thành Thái Cực rồi Lưỡng nghi, có Âm dương, thì thể chất Nguyên Thuỷ Thiên Vương ngưng kết thành Bàn Cổ tạo ra trời đất, mà linh thể trở thành Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, là bậc tối cao vô thượng của cả vũ trụ. Bàn Cổ thì chết đi, nhưng linh thể Thiên Tôn thì tồn tại mãi mãi. Như thế Nguyên Thuỷ Thiên Vương và Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, Bàn Cổ tuy ba mà một. Liền sau Nguyên Thuỷ Thiên Tôn là Linh Bảo Thiên TônĐạo Đức Thiên Tôn tạo thành Tam Thanh.

Tam Thanh sinh hoá mới thành các đấng thần thánh tiên, và các thần thánh tiên đều quay về cõi Tam Thanh. Ngọc Hoàng Thượng Đế là vua của các thần, cũng là do Nguyên Thuỷ Thiên Tôn chỉ định. Như thế Nguyên Thuỷ Thiên Tôn là Thần của các Thần.

Nơi Nguyên Thuỷ Thiên Tôn ngự là cung Tử Hư, cõi đó gọi là Thánh cảnh, thuộc tầng trời Đại La,

[sửa] Tôn hiệu

  • Ngọc Thanh Thánh Cảnh Đại La Nguyên Thuỷ Thiên Tôn
  • Ngọc Thanh Tử Hư Cao Thượng Nguyên Hoàng Thái Thượng Đại Đạo Quân

[sửa] Đồ đệ

[sửa] Trong Phong thần diễn nghĩa

Trong tiểu thuyết thần thoại Phong thần diễn nghĩa, Nguyên Thủy Thiên Tôn được xem như một vị đạo nhân sáng lập ra Xiển giáo, một giáo phái nơi mà tín đồ là các đạo sĩ tu chân học đạo tọa lạc tại Ngọc Hư Cung, đó là một chốn thần tiên quanh năm bị sương mù bao phủ. Giai đoạn mà người ta biết đến ông là cuối đời nhà Thương (商) năm 1030 TCN, đời vua thứ 30 Đế Tân tức Trụ Vương, ông là người trao bản Phong thần cho Khương Tử Nha giúp nhà Chu đánh dẹp nhà Thương.

Đây là một nhân vật hư cấu trong bộ tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa, ông hầu như không ảnh hưởng đến quá trình phân tranh giữa hai nước Chu - Thương mà chỉ đóng vai trò chủ chốt trong phái Xiển giáo, dẫn dắt các đệ tử trên con đường tu đạo. Nguyên Thủy Thiên Tôn không có thật trong lịch sử Trung Quốc mà chỉ là một nhân vật trong thế giới thần thoại Phong thần diễn nghĩa mà thôi[cần dẫn nguồn].

Tồn tại cùng với Xiển giáo của Nguyên Thỉ Thiên Tôn là Triệt giáo do Thông Thiên giáo chủ thành lập, đây là một giáo phái tương tự như Xiển Giáo. Ngày trước hai vị giáo chủ và sư huynh Lão Tử đều học cùng một thầy là Hồng Quân Lão Tổ, nhưng vì đối kháng nhau nên đi theo con đường riêng mà hình thành hai đạo phái khác nhau. Tất cả thành viên trong giáo phái do ông chỉ định đều có nhiệm vụ phò trợ Tây Bá Hầu Cơ Xương cùng các chư hầu dấy binh phạt Trụ và đó cũng cuộc chiến tranh của các thần tiên vào khoảng 1000 năm TCN.

Nguyên Thỉ Thiên Tôn ban cho đệ tử Khương Tử Nha bảng Phong Thần và căn dặn xây đài phong thần để tiếp đón linh hồn các chiến sĩ đã tử trận, phong thần tùy theo công trạng. Người sư đệ của Khương Tử Nha là Thân Công Báo cũng đã dùng nhiều thủ đoạn cản trở nhưng gặp thất bại.

Khi Khương Tử Nha gặp nạn tử trận, ông cũng dùng phép hồi sinh cứu Khương Tử Nha sống lại thoát khỏi nạn kiếp và tiếp tục sứ mệnh của mình.

Trong trận chiến cuối cùng với Thông Thiên Giáo Chủ, Nguyên Thủy Thiên Tôn đã toàn lực vận động các đạo nhân Ngọc Hư Cung chiến đấu tới cùng và đã thành công đẩy lùi thế lực của Triệt Giáo.

[sửa] Đồ đệ

Truyện Phong Thần đã lấy nhiều vị thần tiên, kể cả Bồ tát trong Phật giáo gán làm đồ đệ của Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, thậm chí cả Linh Bảo Thiên Tôn trong Tam Thanh cũng thế, nhưng Thái Thượng Lão Quân lại làm sư huynh của Nguyên Thuỷ Thiên Tôn.

  1. Quảng Thành Tử ở động Đào Nguyên núi Cửu Hoa
  2. Hoàng Long chân nhân ở động Ma Cô núi Nhị Tiên
  3. Thái Ất chân nhân ở động Kim Quang núi Càn Nguyên
  4. Văn Thù Quảng Pháp thiên tôn ở động Vân Tiêu núi Ngũ Long (Văn Thù bồ tát)
  5. Từ Hàng đạo nhân ở động Lạc Già núi Phổ Đà (Quan Âm bồ tát)
  6. Đạo Hành thiên tôn ở động Ngọc Ốc núi Kim Đình
  7. Xích Tinh Tử ở động Vân Tiêu núi Thái Hoa
  8. Cù Lưu Tôn ở động Phi Vân núi Giáp Long (Phật Câu Lâu Tôn)
  9. Linh Bảo đại pháp sư ở động Nguyên Dương núi Không Động
  10. Phổ Hiền đạo nhân ở động Bạch Hạc núi Cửu Cung (Phổ Hiền bồ tát)
  11. Ngọc Đỉnh chân nhân ở động Kim Hà núi Ngọc Tuyền
  12. Thanh Hư Đạo Đức chân nhân ở động Tử Dương núi Thanh Phong