-->

2011-08-19

Kinh Duy Ma Cật -Tập 6-14


CHƯƠNG THỨ 6: BẤT TƯ NGHÌ
1.- Ông Xá Lợi Phất thấy trong tịnh thất không có giường cũng chẳng có một chiếc ghế nào. Ông bèn khởi ý nghĩ: Tịnh thất trống trơn như thế này, chư Bồ tát và Thanh văn chúng rồi sẽ ngồi vào đâu?
Biết ý nghĩ của Ông Xá Lợi Phất, trưởng giả Duy Ma Cật bèn hỏi:
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! ngài vì pháp đến đây hay vì chỗ ngồi mà đến?
- Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì chỗ ngồi. Ông Xá Lợi Phất đáp.
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! người thực tâm cầu pháp, thân mạng còn không đáng tiếc hà huống phải quan tâm nghĩ đến chỗ ngồi. Cầu pháp phải quên đi cái thân ngũ uẩn. Cầu pháp phải đóng bít lục căn, cắt đứt lục trần và vô hiệu hóa hết cả lục thức.
Cầu pháp không cầu những pháp triền phược tương quan trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi
Vô Sắc.
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! người cầu pháp không phải vì ham quả vị Phật. Cầu pháp không phải vì đam mê giáo pháp. Cầu pháp không phải vì cảm tình với chúng Tăng. Không vì thấy khổ mà cầu pháp. Không vì đoạn tập mà cầu pháp. Không vì chứng đắc Niết bàn mà cầu pháp. Và cũng không vì nguyên nhân chứng đắc Niết bàn mà cầu pháp. Vì sao? Vì pháp không phải hý luận. Nếu nói rằng ta vì thấy khổ, vì đoạn tập, vì chứng Niết bàn, vì tu đạo mà cầu pháp thì pháp đó trở thành hý luận, không phải cầu pháp.
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Pháp là tịch diệt. Nếu biểu hiện qua hành vi sanh diệt thì
đó là cầu sanh diệt, chớ không phải cầu pháp.
Pháp là vô nhiễm. Nếu nhiễm ở pháp cho đến nhiễm Niết bàn, thế là cầu nhiễm chớ không phải cầu pháp.
Pháp không năng hành, sở hành. Nếu dụng ý hành ở nơi pháp, đó là cầu năng hành sở hành chớ không phải cầu pháp.
Pháp không có thủ xả. Đối với pháp mà có ý thủ xả, đó là cầu thủ xả chớ không phải cầu pháp.
pháp.
Pháp không có xứ sở. Nếu chấp nê xứ sở, đó là cầu xứ sở chớ không phải cầu
Pháp là vô tướng. Nếu dựa trên tướng để nhận biết, đó là cầu tướng chớ không phải cầu pháp.
Pháp không được trụ. Nếu trụ ở nơi pháp, đó là cầu trụ chớ không phải cầu pháp. Pháp không phải thấy, nghe, hiểu biết. Nếu biểu hiện qua thấy, nghe, hiểu biết đó
là cầu thấy, nghe, hiểu biết chớ không phải cầu pháp.
Pháp là vô vi. Nếu hiểu qua hữu vi, đó là cầu hữu vi chớ không phải cầu pháp. Vì vậy cho nên:
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! nếu là người cầu pháp, đối với tất cả không nên khởi ý niệm cầu.
Ông Duy Ma Cật nói xong những điều trên, bấy giờ có năm trăm thiên tử đối với các pháp có được cái nhận thức thanh tịnh ( đắc pháp nhãn tịnh).
2.- Ông Duy Ma Cật hỏi Bồ tát Văn Thù rằng: Nhân giả từng vân du vô lượng vô số cõi nước, Ngài biết cõi Phật nào có tòa sư tử đẹp nhất do công đức trang nghiêm thành tựu?
- Có, thưa cư sĩ. Bồ tát Văn Thù đáp. Ở về phương Đông, từ đây phải trải qua ba mươi sáu hằng hà sa nước, có thế giới tên Tu Di Tướng, đức Phật ở cõi nước đó hiệu Tu Di Đăng Vương đang trụ thế. Thân Phật lớn tám muôn bốn ngàn do tuần. Tòa sư tử của Phật cũng cao tám muôn bốn ngàn do tuần, lộng lẫy trang nghiêm bậc nhất.
Ông Duy Ma Cật vận dụng hiện sức thần thông khiến ba muôn hai ngàn tòa sư tử
lộng lẫy trang nghiêm cao rộng tự chuyển vào trong tịnh thất của ông trong khoảnh khắc.
Chư Bồ tát, các đại đệ tử, Đế thích, Phạm thiên nghĩ rằng việc này từ trước đến nay chưa từng thấy. Chu vi ngôi tịnh thất hữu hạn chừng ấy, lại bao dung cả ba muôn hai ngàn tòa sư tử đồ sộ thế kia mà không chướng ngại gì nhau. Thành Tỳ Da Ly cũng có chừng mực phạm vi của nó thế mà mọi hiện trạng đều y nguyên như cũ, không chật chội hơn chút nào!
Ông Duy Ma Cật mời Bồ tát Văn Thù và chư đại Bồ tát an tọa. Các Bồ tát được thần thông tự biến thân cao lớn bốn muôn hai ngàn do tuần, mới lên tòa ngồi được. Các Bồ tát tân phát ý và hàng Thanh văn đại đệ tử đều không lên ngồi được.
Trưởng giả Duy Ma Cật mời ông Xá Lợi Phất thăng tòa.
Ông Xá Lợi Phất nói: Thưa cư sĩ, tòa cao quá tôi không lên được.
Trưởng giả Duy Ma Cật nói: Xá Lợi Phất! Ngài làm lễ đức Tu Di Đăng Vương
Như Lai rồi có thể lên tòa ngồi được.
Hàng tân phát ý Bồ tát và tất cả đại đệ tử Thanh Văn làm lễ đức Tu Di Đăng
Vương Như Lai, bấy giờ mọi người đều lên được tòa ngồi.
Ông Xá Lợi Phất nói: Thưa cư sĩ! Quả là việc lạ lùng chưa từng có. Diện tích của ngôi tịnh thất hữu hạn này mà lại có thể dung chứa hàng mấy muôn cái tòa cao rộng. Thành Tỳ Da Ly, xóm làng, cõi nước đều không chật chội trở ngại gì nhau. Đây là việc chưa từng có!
Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ông Duy Ma Cật nói: Chư Phật, Bồ tát có pháp môn giải thoát gọi là “Bất khả tư nghì”. Nếu Bồ tát trụ trong pháp môn giải thoát đó, có thể lấy núi Tu Di cao rộng để vào trong một hạt cải, mà núi Tu Di vẫn y nguyên trạng, hạt cải cũng không thêm bớt chút nào. Trời Tứ Thiên vương, Đao Lợi, chư Thiên không thể hay biết cảnh giới chư Thiên đang ở trong hạt cải. Chỉ có những người đáng độ (Bồ tát đăng địa), mới thấy biết núi Tu Di được đặt vào trong hạt cải.
Bồ tát trụ bất tư nghì giải thoát, có thể lấy nước biển cả để vào lỗ chân lông mà nước biển cả vẫn y nhiên. Các loài thủy tộc cá, tôm, rùa, trạnh v.v…không bị khuấy động, Long vương, quỷ thần, A tu La…không hề hay biết và họ chẳng bị nhiễu hại chút nào.
Bồ tát trụ bất tư nghì giải thoát, còn xắn lấy ba ngàn đại thiên thế giới để trên bàn tay và ném qua hằng hà sa thế giới, rồi thu về đặt lại chỗ cũ, mà thế giới vẫn y nhiên. Người người ở trong các thế giới kia không hề hay biết về sự đi lại của mình.
3.- Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu có chúng sanh thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ, trong khoảng bảy ngày, Bồ tát nói với họ là một kiếp, khiến chúng sanh kia tin nhận là một kiếp. Hoặc có chúng sanh không thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ, Bồ tát rút ngắn một kiếp nói là bảy ngày, khiến chúng sanh kia tin nhận là bảy ngày.
Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát, Bồ tát lấy những sự trang trí đẹp đẽ của tất cả cõi Phật nhóm lại ở một chỗ chỉ bày cho chúng sanh xem thấy rõ ràng. Bồ tát lại lấy tất cả chúng sanh và cõi Phật để trên bàn tay bay đến khắp mười phương, chỉ rõ cho tất cả mà “bổn xứ” không hề động chuyển.
Thưa ngài Xá Lợi Phất! Những món đồ cúng dường chư Phật trong mười phương, Bồ tát có thể đem vào trong một lỗ chân lông khiến cho ai cũng có thể được thấy.
Mười phương cõi nước có bao nhiêu nhật nguyệt, tinh tú gom về trong một lỗ
chân lông, khiến cho xem thấy dễ dàng.
Mười phương thế giới có bao nhiêu gió, Bồ tát hớp vào miệng mà thân không hề
tổn hại. Tất cả cỏ cây bên ngoài không bị gãy đổ.
Mười phương thế giới, khi kiếp tận, lửa cháy ngút trời, Bồ tát hút tất cả lửa vào trong bụng, mà thân không bị hại.
Bồ tát có thể lấy một cõi Phật ở hằng hà sa thế giới ở hạ phương, cầm đem lên cách hằng hà sa số thế giới ở thượng phương như cầm một que tăm găm vào một lá táo, không khó khăn mệt nhọc chút nào.
Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tu nghì giải thoát, Bồ tát có thể dùng thần thông hiện thân Bích chi Phật, hoặc hiện thân Thanh văn, hoặc hiện thân Đế thích, hoặc hiện thân Phạm vương. hoặc hiện thân Chuyển luân vương.
Lại nữa, trong mười phương thế giới có bao nhiêu thứ âm thanh, thượng, trung, hạ đều có thể biến thành âm thanh Phật, diễn nói những pháp của chư Phật trong mười phương đã nói như vô thường, khổ, không, vô ngã khiến cho chúng sanh hữu duyên đều được nghe.
Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tôi lược nói về thần lực bất khả tư nghì giải thoát của Bồ
tát là thế. Nếu nói rộng suốt kiếp cũng không thể nói hết được.
4.- Ngài Đại Ca Diếp, sau khi nghe pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, rất hoan hỉ, tán thán và nói với ông Xá Lợi Phất rằng:
Ví như sắc tượng hiện hữu ngay trước mắt người mù nhưng người mù không sao thấy được. Cũng vậy, với pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, hàng Thanh văn dù có nghe nhưng cũng không hiểu rõ được.
Người trí ai nghe mà chẳng phát tâm vô thượng Bồ đề.
Hàng Thanh văn chúng ta vì sao lại dứt hẳn hạt giống đại thừa để cho mầm tược cháy khô! Tất cả hàng Thanh văn nghe pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, nên khóc rống lên đi! Khóc cho vang động cả ba ngàn đại thiên thế giới! Còn tất cả những Bồ tát, những người chủng tánh đại thừa nên hoan hỉ tiếp thụ, kê đầu đội lấy pháp môn này.
Bồ tát tin và hiểu pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, tất cả các ma dù có thế lực bao nhiêu đi nũa cũng không làm gì động chuyển.
Ngài Đại Ca Diếp nói xong, khi bấy giờ có ba muôn hai ngàn thiên tử phát tâm vô thượng Bồ đề.
Ông Duy Ma Cật nói với ngài Đại Ca Diếp:
5.- Thưa nhân giả! Trong thập phương vô lượng A tăng kỳ thế giới, những người làm ma vương phần nhiều là Bồ tát trụ bất tư nghì giải thoát, dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sanh mà hiện làm ma vương như vậy.
Lại nữa, thưa ngài Ca Diếp! Bồ tát trong mười phương nhiều vô số. Có khi người ta theo các ngài để xin mắt, mũi, tay, chân, máu thịt, xương tủy, đầu óc…Xin quốc thành thê tử, tượng mã, kim ngân…xin cả y phục và thức ăn. Người xin như vậy, phần nhiều là Bồ tát trụ bất khả tư nghì giải thoát dùng sức phương tiện để thử thách hạnh sở hành của Bồ tát khiến cho sức kiên cố càng thêm kiên cố.
Thử thách như vậy để làm gì?
Bởi vì Bồ tát trụ bất tư nghì giải thoát có nghị lực và uy đức lớn lao, cho nên dùng những hành động bức bách dồn ép làm những việc khó làm để biểu thị sức tinh tấn, chỉ bày đức nhẫn nhục…vì sự nghiệp giáo hóa chúng sanh.
Hạng phàm phu hạ liệt không có uy lực, không thể kham chịu những sự bức bách nghiệt ngã như Bồ tát được. Ví như sức lừa không thể chịu nổi sự dẫm đạp của long tượng.
Đó là pháp môn phương tiện và trí tuệ của Bồ tát trụ bất khả tư nghì giải thoát pháp môn.
TRỰC CHỈ
Bất khả tư nghì có nghĩa là vượt ngoài khái niệm suy tư phân biệt của sự hiểu biết thường tình. Sự kiện bất tư nghì đồng nghĩa với những gì xưa nay chưa từng có mà nay có.
Duy Ma Cật là người bất tư nghì. Ông thuyết bất tư nghì pháp, tập hợp bất tư nghì chúng để khởi động bất tư nghì tâm, khiến cho những ai còn mơ hồ về khả năng trí tuệ của đại thừa, nhân cơ hội này đều được nghe qua sự trình diễn “bất tư nghì cảnh”, của vị Bồ tát tại gia là trưởng giả Duy Ma Cật.
1.- Tịnh thất trống không tiêu biểu chân lý: vạn pháp giai không.
Một thân nằm trên một giường, tiêu biểu pháp giới thân và pháp giới độ viên dung, bất ly, bất tức.
Phật có “Pháp thân, Báo thân, và Ứng thân”. Con người ai ai cũng có ba thân như vậy. Về pháp thân thì ở Thánh cũng không thể tốt thêm ra, ở phàm cũng không xấu bớt, nghĩa là pháp thân thì Phật và chúng sanh cùng có y nhau. Chỉ có Báo và Ứng hai thân này thì sự thọ dụng tùy phước đức và trí huệ riêng khác của mỗi con người.
Vì vậy, một thân nằm choán trên một giường và chỉ một giường bệnh đơn độc ở trong một tịnh thất trống, đó là một báo hiệu mở màn cho những thời pháp bất tư nghì ở các chương sắp tới.
Đi nghe pháp cốt để học chánh pháp, hành chánh pháp và sống theo chánh pháp. Sống đúng chánh pháp tức là sống trong Bồ đề Niết bàn rồi. Cho nên nghe pháp, học pháp không nên dụng ý khởi tâm mong cầu. Cầu chứng đắc Bồ đề, Niết bàn vẫn đã là sai huống chi cầu chỗ ngồi, nghĩ đến chỗ ngồi và khởi tâm mong cầu những điều gì khác.
Sống đúng theo chánh pháp đồng nghĩa với sống đúng pháp tánh. Sống đúng pháp tánh tức là mình sống với Phật tánh của mình rồi. Vì Phật tánh và Pháp tánh không hai. Vì tánh thanh tịnh bản nhiên của chúng sanh vô tình trong vũ trụ vạn hữu gọi là pháp tánh. Tánh thanh tịnh bản nhiên của chúng sanh hữu tình, của con người gọi là Phật tánh. Ví như cùng là lửa do đốt rơm hay đốt than đá mà tên của lửa và độ nóng của lửa khác nhau.
2.- Bồ tát trụ trong pháp môn bất tư nghì có thể làm tất cả việc bất tư nghì do Bồ
tát xử dụng “Quán trí” bất tư nghì vậy.
Xử dung Quán trí bất tư nghì, Bồ tát thấy và hiểu biết rõ tánh duyên khởi huyền diệu của vạn pháp như sau:
a.- Đồng thời cụ túc tương ứng môn : Bồ tát xử dụng quán trí biết và thấy rõ ràng một pháp có đủ chủng tử, chất liệu của vạn pháp tự nó ứng hợp lại với nhau mà hình thành.
b.- Nhất đa tương dung bất đồng môn: Một là một của cái nhiều. Nhiều là nhiều của cái một. Một và nhiều dung nhiếp quyện chặt với nhau. Trong cái nhiều có nhiều cái một. Cái một là yếu tố cấu tạo nên cái nhiều. Dù vậy tướng một và tướng nhiều không hai mà cũng không phải một.
c.- Chư pháp tương tức tự tại môn: Pháp này tức là pháp kia. Pháp kia tức là pháp này. Trong pháp này hàm chứa chủng tử của pháp kia. Trong tất cả pháp kia có chứa chất liệu chủng tử của pháp này. Chủng tử của vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau, tương túc tương nhập một cách tự tại.
d.- Nhân đà la võng cảnh giới môn: Nhân đà la võng là màn lưới châu nhiều lớp của Thiên Đế Thích. Lưới châu này ánh hiện hình ảnh trùng trùng, cho nên sự phản chiếu và ánh hiện của lưới châu vô tận. Hiện tượng vạn pháp tương ưng, tương dung, tương tức, tương nhập tác dụng lẫn nhau mà hình thành, sự tương quan tác dụng đó như
sự ánh hiện của lưới châu trời.
e.- Vi tế tương dung an lập môn: Dù vật nhỏ như một mảy may hay ở một điểm vi tế nào cũng hàm dung chất liệu của tất cả hiện tượng vạn pháp. Ví như đầu mảy lông của con sư tử vàng cùng với chất vàng của toàn thân con sư tử tương dung tương tức mà an lập hình thành ra sư tử vàng.
f.- Bí mật ẩn hiển câu thành môn: Một pháp tức là tất cả các pháp. Khi thấy biết một pháp thì một pháp hiển, tất cả pháp ẩn. Bấy giờ, tất cả pháp tức là một pháp. Khi thấy biết tất cả pháp thì tất cả pháp hiển, một pháp ẩn. Bấy giờ, một pháp là tất cả pháp. Ví như ngôi nhà và nguyên liệu xây dựng ngôi nhà.
g.- Chư tàng thuần tạp cụ đức môn: Mỗi pháp là một chỉnh thể hàm tàng hỗn hợp. Những pháp do hỗn hợp nhiều chất liệu, nhiều yếu tố mà thành gọi là tạp. Có pháp không do nhiều chất tương đối có tính đơn thuần hỗn hợp mà vẫn được thành, gọi đó là thuần. Dù thuần dù tạp pháp nào cũng có vị trí của nó và tương quan tác dụng với nhau để hình thành vạn pháp trong thế giới hiện tượng.
h.- Thập thế cách pháp dị thành môn: Dựa trên bảy môn trên, thiền giả quán chiếu nhận thức vạn pháp bên mặt không gian, không có pháp nào đơn độc tự nó hình thành ra nó. Về mặt thời gian cũng thế. Khái niệm thời gian là dựa trên quá trình vận động biến chuyển vô thường của sự vật hiện tượng. Đã là biến chuyển vận động vô thường thì không thể có một phút giây dừng đứng. Cho nên, đời chỉ là một khái niệm ước định nhận thức của con người. Chơn thật mà nói, đời không có gì làm điểm tựa. Quá, hiện. vị lai gọi là ba đời. Kỳ thật trong quá khứ đã có đủ quá, hiện, vị lai. Trong hiện tại đã có quá, hiện, vị lai và vị lai vẫn đã có quá, hiện, vị lai. Chín đời tổng hợp thành một đời. Một đời do chín đời hợp lại. Cho nên gọi là thập thế cách pháp dị thành nghĩa là chín đời dị biệt lại có thể thành tựu một đời.
i.- Duy tâm hồi chuyển thiện thành môn: Duy tâm tức là Duy Như Lai tàng tâm. Tất cả vạn pháp duy Như Lai tàng tâm mà chuyển biến xoay vần, duyên khởi tác dụng vào nhau hình thành một cách mầu nhiệm. Cho nên gọi là Duy tâm hồi chuyển thiện thành.
j.- Thác sự hiển pháp sanh giải môn: Dựa trên sự vật cụ thể phô diễn trước mắt, người ta có thể suy luận, tư duy và nhận thức vạn pháp một cách không khó khăn về cả hai mặt: không gian và thời gian. Người thiền giả nhận thức rõ sự tổ hợp hình thành của vạn pháp với chân lý trùng trùng duyên khởi qua Thập huyền môn cũng là một chân lý hiển nhiển không khó khăn gì.
Thể nhập sâu sắc chân lý của vạn pháp qua thập huyền duyên khởi, người học
Phật mới cắt nghĩa được những bất tư nghì sự của Bồ tát thi thố, mới hiểu đúng những bất tư nghì pháp của Bồ tát nói, mới thật thấy mà không phải thấy thật những bất tư nghì cảnh giới mà Bồ tát trình diễn ở kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết này.
Tòa sư tử cao rộng 84.000 do tuần (một do tuần 30 km), vậy 84.000 x 30 =
2.520.000 km. Thế là một tòa sư tử chiếm diện tích: hai triệu năm trăm hai chục ngàn cây số. Vậy mà trưởng giả Duy Ma Cật mượn về và đem vào tịnh thất của mình ba muôn hai ngàn tòa sư tử cao rộng như thế. Thế mà tịnh thất vẫn dung chứa hết. Thành Tỳ Da Ly, xóm làng cũng không chật chội hơn chút nào.
Sự kiện này, kinh Duy Ma Cật muốn nói gì đây? Người đệ tử Phật phải tin hiểu cách nào? Pháp sư truyền bá chánh pháp phải giảng dạy như thế nào để cho người đệ tữ Phật sau khi học pháp không ngu đần mê tính dị đoan hơn lúc chưa đi nghe pháp.
Giải đáp mấy nghi vấn vừa nêu, người học Phật chỉ có một con đường duy nhất phải hành thiền, phải tư duy và quán chiếu thập huyền duyên khởi cho thấu triệt, thể nhập tận tường. Bấy giờ trí tuệ của thiền giả phát triển thì sự thấy nghe và nhận thức vạn pháp xuyên qua kinh điển không lầm.
Bồ tát trụ bất tư nghì giải thoát làm những việc bất tư nghì…là cách vận dụng ngôn ngữ để chuyên chở trí tuệ bất tư nghì của con người thành tựu nhất thiết chủng trí.
Xử dụng nhất thiết chủng trí nhìn bất cứ một pháp nào đều thấy :Đồng thời cụ túc tương ứng.
tự tại.
Xử dụng nhất thiết chủng trí nhìn vạn pháp, thiền giả sẽ thấy: Chư pháp tương tức
Xử dụng nhất thiết chủng trí nhìn vạn pháp, thiền giả sẽ thấy: Nhất đa tương dung bất đồng.
ngại.
Xử dụng nhất thiết chủng trí nhìn vạn pháp, thiền giả sẽ biết: Quảng hiếp tự tại vô
Kinh nói trưởng giả Duy Ma Cật mượn ba muôn hai ngàn tòa sư tử cao rộng
84.000 do tuần ở thế giới thượng phương đem vào trong thất mà tịnh thất vẫn dung nạp hết. Thành Tỳ Da Ly và xóm làng không hề chật chội và chẳng trở ngại gì.
Mở gút nghi ngờ đó, thiền giả phải xử dụng nhất thiết chủng trí nhìn vạn pháp qua tri kiến: Quảng hiếp tự tại vô ngại. Thiền giả thấy rằng: sự rộng, hẹp, lớn, nhỏ của vạn pháp trên hiện tượng chỉ là hiện tượng. Còn bản thể của vạn pháp thì tương ứng, tương dung, tương tức, tương nhập, tương thành.
Người học Phật và là đệ tử Phật chơn chánh tuyệt đối không được khởi niệm tin rằng Bồ tát Duy Ma Cật có tài phép biến hóa như một nhà ảo thuật, như một thôi miên gia…
3.-Nói về việc kéo dài thời gian ngắn ra dài, dài rút ngắn để dáp ứng nguyện vọng của chúng sanh cốt là khiến cho họ quay về với Phật pháp.
Làm được điều đó, thiền giả chỉ cần xử dụng quán trí: Thập thế cách pháp dị thành. Thành tựu phép quán đó, thiền giả chợt thấy thời gian chẳng có giá trị chơn thật. Khái niệm thời gian chỉ là dựa trên sự vô thường vận động chuyển biến của các pháp hữu vi vẫn luôn luôn chuyển biến vận động vô thường.
Do vậy, dưới mắt của người thành tựu nhất thiết chủng trí thời gian ngắn dài chỉ
là hí luận để luận thuyết với những ai còn mê mộng chân lý cuộc đời.
Xử dụng nhất thiết chủng trí nhìn vạn pháp qua lăng kính Bát nhã Ba la mật, thiền giả sẽ thấy vạn pháp giai không thì không gian và thời gian dù có diễn tả thiên ngôn vạn ngữ bùi tai đẹp ý cách nào thì cũng chỉ là hí luận mà thôi.
Người gọc Phật không tư duy sâu sắc, không thể nhập ý nghĩa Thập huyền duyên khởi mà đem kinh Duy Ma Cật ra giảng nói lếu láo, qua loa càng khiến cho những người Phật tử chưa có điều kiện học Phật vốn đã mê tín, sau thời gian đi nghe giảng kinh Duy Ma, óc mê tín càng tăng thêm vạn bội.
Bởi vì trưởng giả Duy Ma Cật là người bất tư nghì, tập hợp bất tư nghì chúng, thuyết bất tư nghìpháp, làm bất tư nghì sự, trình diễn bất tư nghì cảnh giới, trụ bất tư nghì giải thoát pháp môn, nhưng bất tư nghì không được hiểu như người có tài phép biến hóa. Càng không được hiểu bất tư nghì đồng nghĩa với sự khéo tay trình diễn trước công chúng của các nhà ảo thuật thiên tài.
4.- Hàng Thanh văn sau khi nghe bất tư nghì sự của Bồ tát rồi tự trách về tri kiến mình và sau đó, phát tâm Vô thượng Bồ đề, đó là chân lý đương nhiên vậy.
5.- Có lửa cao mới biết tuổi vàng. Có chiến đấu mới thể hiện khả năng của dũng sĩ. Bồ tát thì phải làm cho được những việc khó làm. Để trắc nghiệm mức độ thành công của Bồ tát là những sự bức bách, những bất như ý, khó khăn Bồ tát phải vận dụng sức trí tuệ đáp ứng mọi tình huống, mọi yêu cầu để hoàn thành hạnh nguyện. Vì tất cả chủng loại chúng sanh là Tịnh Độ của Bồ tát.









CHƯƠNG THỨ 7: QUÁN CHÚNG SANH
1.- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Đối với chúng sanh, Bồ tát quán chiếu và thấy như thế nào?
Ông Duy Ma Cật nói: Bồ tát quán thấy chúng sanh như nhà huyễn thuật thấy người huyễn do huyễn thuật hóa ra. Lại ví như như người trí thấy trăng trong nước, như bóng trong gương, như sóng nắng lúc trời nắng gắt của ngày hè, như vang của tiếng, như mây trong không, như bọt trên mặt nước, như bong bóng dưới cơn mưa, như sự bền chắc của cây chuối, như sự dừng lâu của tia chớp lưng trới, như đại thứ tám, như ấm thứ sáu, như nhập thứ mười ba, như giới thứ mười chín.
Bồ tát quán chúng sanh như thế đấy.
Lại nữa, Bồ tát quán thấy chúng sanh: như sắc chất trong cõi vô sắc, như mầm của thóc ran, như thân kiến của người được quả Tu Đà hoàn, như sự nhập thai của người được quả A la hán, như tham, sân, si của Bồ tát được chứng pháp vô sanh nhẫn, như phiền não tập khí của Phật, như sự thấy màu sắc của người mù, như dấu chim trong hư không, như con của thạch nữ, như phiền não của huyễn nhơn, như chiêm bao lúc thức, như lửa không khói.
Bồ tát quán thấy chúng sanh như thế đấy. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi!
2.- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi: Bồ tát đã khởi quán chúng sanh như vậy, thế còn hạnh từ bi Bồ tát phải thực hiện hạnh từ bi của mình đối với chúng sanh bằng cách nào?
Ông Duy Ma Cật nói: Bồ tát khởi quán như thế rồi tự nghĩ rằng ta sẽ vì chúng sanh mà nói pháp như thế đó là hành chơn thật từ. Tiếp đến, Bồ tát vận dụng: hành tịch diệt từ biết rõ các pháp vốn không sanh. Hành bất nhiệt từ không để cho phiền não sanh khởi trong lòng. Hành bình đẳng từ với quá khứ, hiện tại, vị lai thời nào tâm cũng bình đẳng. Hành vô tránh từ không khởi ý tranh cải thị phi. Hành bất nhị từ cắt đứt ý phân biệt ngoại cảnh nội tâm. Hành bất hoại từ biết rõ tánh rốt ráo không của các pháp. Hành kiên cố từ tâm thâm tín chánh pháp không gì lay động nổi. Hành thanh tịnh từ biết rõ tánh của vạn pháp vốn thanh tịnh. Hành vô biên từ tâm rỗng lặng cởi mở như hư không. Hành La hán từ đề cao cảnh giác hóa giải hết những phiền não kiết sử. Hành Bồ tát từ sẳn sàng đem lại mọi an ổn hạnh phúc cho chúng sanh. Hành Như lai từ thể nhập cái tướng như của vạn pháp. Hành Phật đà từ đem hết cuộc đời mình truyền bá tư tưởng tỉnh thức giác ngộ cho chúng sanh. Hành tự nhiên từ biết rõ quả sở chứng không hề có đắc. Hành Bồ đề từ biết rõ tất cả giáo pháp Phật chỉ có một vị đó là vị giải thoát. Hành vô đẳng từ cắt đứt trọn vẹn các ái tưởng nhiễm tâm. Hành đại bi từ dắt dẫn mọi người vào đại thừa đạo. Hành vô yểm từ tâm luôn luôn trụ trong quán trí vô ngã và không. Hành pháp thí từ không dấu diếm chúng sanh về sự hiểu biết chánh pháp của mình. Hành trì giới từ sẳn sàng giúp đở, cảm hóa những ai phạm giới. Hành nhẫn nhục từ giúp đở người khác như giúp đở cho chính ta. Hành tinh tấn từ gánh vác trọng trách giáo hóa chúng sanh. Hành thiền định từ không đam mê vị khinh an của thiền định. Hành trí tuệ từ luôn luôn biết việc, biết thời, biết tà, biết chánh. Hành phương tiện từ tất cả thi vi hành động đều là việc làm của thị hiện. Hành vô ẩn từ tâm lúc nào cũng trực và luôn luôn thanh tịnh. Hành thâm tâm từ dù hành các hạnh mà không có tạp hạnh. Hành vô cuống từ khônglàm những gì có tánh dối gạt phỉnh phờ. Hành an lạc từ bằng mọi cách khiến cho mọi người thọ dụng được cái vui của Phật đạo.
Thưa ngài đại trí Văn Thù! Thực hiện hạnh từ của Bồ tát là như thế đấy.
- Bồ tát Văn Thù hỏi: Thưa cư sĩ! Thế nào là Bi tâm của Bồ tát?
- Ông Duy Ma Cật đáp: tất cả công đức của Bồ tát làm đều cho chúng sanh hết.
- Hỉ tâm của Bồ tát thế nào?
tiếc.
- Chúng sanh được những lợi lạc gì, Bồ tát đều tán thán vui mừng không có hối
- Xả tâm của Bồ tát thế nào?
- Bồ tát làm bao nhiêu việc phước đức, cứu độ cho chúng sanh được những gì không có niệm ta là kẻ thi ân và đăït hy vọng chờ ngày đền trả.
3.- Đường sanh tử rất đáng sợ, Bồ tát phải nương tựa nơi gì để được an ổn?
- Nương nơi nghị lực và công đức Như Lai.
nào?
- Bồ tát muốn nương tựa nghị lực và công đức Như lai cần phải trụ tâm ở nơi
- Trụ ở tâm độ thoát tất cả chúng sanh.
- Muốn độ thoát tất cả chúng sanh, Bồ tát phải trừ bỏ những gì?
- Phải trừ bỏ tất cả những phiền não.
- Muốn trừ bỏ phiền não, Bồ tát phải thực hành những gì?
- Phải thực hành chánh niệm.
- Thực hành chánh niệm phải làm sao?
- Muốn thực hành chánh niệm phải hành bất sanh, bất diệt.
- Pháp nào bất sanh, pháp nào bất diệt?
- Pháp bất thiện bất sanh. Pháp thiện bất diệt.
- Pháp thiện và bất thiện lấy gì làm gốc?
- Thân làm gốc.
- Thân lấy gì làm gốc?
- Dục và tham làm gốc.
- Dục và tham lấy gì làm gốc?
- Hư vọng phân biệt làm gốc.
- Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc?
- Tướng điên đảo làm gốc.
- Tướng điên đảo lấy gì làm gốc?
- Vô trụ làm gốc.
- Vô trụ lấy gì làm gốc?
- Vô trụ thì không có gốc.
pháp.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ông Duy Ma Cật nói: Từ chỗ vô trụ mà an lập tất cả
4.- Trong tịnh thất của ngài Duy Ma Cật có vị thiên nữ. Thấy hàng nhơn thiên nghe pháp, thiên nữ bèn hiện thân và dùng hoa cõi trời tung rải trên các hàng Bồ tát và đại đệ tử Thanh văn cúng dường. Hoa rơi đến các Bồ tát, rớt xuống bình thường. Những hoa rơi nhằm các đại đệ tử thì dính trên người không rớt. Các đại đệ tử dùng hết thần lực phủi bỏ những hoa kia nhưng phủi mãi mà hoa không rớt được.
Thiên nữ hỏi ông Xá Lợi Phất: Vì sao ngài Xá Lợi Phất lại phủi hoa như thế?
tôi.
Ông Xá Lợi Phất đáp: Vì hoa này không đúng pháp đối với một tu sĩ như chúng
Thiên nữ nói: Đừng cho rằng hoa này không đúng pháp. Vì sao? Vì hoa không có phân biệt, tại vì Xá Lợi Phất ngài có cái tướng phân biệt đấy thôi. Ở trong Phật pháp, xuất gia mà còn có phân biệt đó là không đúng pháp. Nếu không phân biệt thế mới là đúng pháp.
Xá Lợi Phất! Ngài hãy xem kia, các Bồ tát hoa không dính các ngài vì Bồ tát đã dứt hết tướng phân biệt. Ví như người hay sợ thì quỷ mị mới có dịp khuấy phá khủng bố. Các hàng đệ tử Thanh văn sợ sanh tử cho nên sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trở thành đối tượng nhiễu loạn cõi lòng. Nếu đã ly sự sợ hãi thì ngũ dục không làm gì được. Chỉ vì tập khí kiết sử của ngài chưa hết cho nên hoa dính mắc vào thân, khi nào tập khí hết hoa sẽ không còn dính nữa.
5.- Ông Xá Lợi Phất hỏi: Thiên nữ ở tại tịnh thất này đã lâu rồi chứ?
- Thiên nữ đáp: Tôi ở tại tịnh thất này như sự giải thoát của bậc kỳ cựu cao niên.
- Vậy có lâu chưa?
- Sự giải thoát của bậc kỳ cựu cao niên há cũng có lâu sao? Ông Xá Lợi Phất lặng thinh không biết phải nói gì.
Thiên nữ nói: Bậc kỳ cựu đại trí như ngài Xá Lợi Phất sao lại lặng thinh?
- Sự giải thoát vượt ngoài ngôn thuyết văn tự cho nên tôi không biết phải nói gì!
- Văn tự ngôn thuyết là tướng giải thoát đấy chứ! Vì sao? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở trung gian. Văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, cũng không ở trung gian.
Thế cho nên không rời văn tự mà nói giải thoát thưa ngài Xá Lợi Phất! Bởi vì sao? Vì tất cả các pháp là tướng giải thoát.
- Không xa lìa dâm nộ si vẫn được giải thoát nữa sao?
- Đúng vậy, Phật vì hạng người tăng thượng mạn nói: Phải xa lìa dâm nộ si để được giải thoát. Nếu không phải hạng tăng thượng mạn, Phật nói tánh của dâm nộ si là tánh giải thoát.
6.- Ông Xá Lợi Phất tán thán: Quí hóa thay! Quí hóa thay Thiên nữ! Cô đắc gì? Cô chứng được gì mà cô có được sức biện tài như thế?
- Tôi không đắc gì hết cũng không chứng gì hết nên tôi mới có được biện tài như
thế. Vì sao? Bởi vì có chứng có đắc ở trong Phật pháp là người tăng thượng mạn.
7.- Ông Xá Lợi Phất hỏi thiên nử: Ở trong ba thừa cô cầu thừa nào?
- Thiên nữ đáp: Khi cần pháp Thanh văn giáo hoá chúng sanh tôi cầu Thanh văn thừa. Khi cần pháp nhân duyên giáo hóa chúng sanh tôi cầu Bích chi Phật thừa. Khi cần pháp đại bi giáo hóa chúng sanh tôi cầu Đại thừa.
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ví như người vào rừng chiêm bặc chỉ ngửi hương chiêm bặc, không ngửi hương khác. Cũng vậy, nếu người vào tịnh thất này chỉ nghe hương công đức của chư Phật, không ưa nghe hương công đức của Bích chi Phật, của Thanh văn.
8.- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ở trong tịnh thất này, thỉnh thoảng có Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, chư Thiên Long, quỷ thần vào và nghe Duy Ma Cật thượng nhơn thuyết chánh pháp. Tất cả đều vui ưa hương công đức Phật phát tâm rồi đi.
Ngài Xá Lợi Phất này! Tôi ở tịnh thất này đã mười hai năm. Ngay từ ban đầu, không bao giờ nghe thuyết pháp Thanh văn, Bích chi Phật, tôi chỉ nghe pháp đại từ, đại bi của Bồ tát và pháp bất tư nghì của Phật.
được.
Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tịnh thất này thường hiện tám pháp chưa từng có và khó
Tịnh thất này thường dùng màu hoàng kim soi sáng ngày cũng như đêm mà không cần đến ánh sáng của nhật nguyệt. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ nhất.
Người vào tịnh thất này không bị các sự cấu uế làm não loạn thân tâm. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ hai.
Tịnh thất này thường có Đế Thích, Phạm Vương và chư Bồ tát ở mười phương
đến nhóm họp thường xuyên. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ ba.
Ở tịnh thất này thường có thuyết giảng về lục ba la mật và những pháp bất thối chuyển. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ tư.
Ở tịnh thất này thường ngân vang những pháp âm vi diệu, tác động cho nhơn thiên tiếp nhận niềm vui thượng diệu. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ năm.
Ở tịnh thất này có kho tàng tứ đại chứa đầy các báu vật, giúp cho những ai nghèo thiếu, cung cấp hoài không hết. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ sáu.
Ở tịnh thất này khi Duy Ma Cật thượng nhơn khởi tưởng niệm thì Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc, Phật Bảo Đức, Phật Bảo Viêm, Phật Bảo Nguyệt, Phật Bảo Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử Hướng, Phật Nhất Thiết Lợi Thành v.v…vô lượng chư Phật trong mười phương cùng đến nói hết những pháp yếu bí tàng của chư Phật. Nói xong rồi, chư Phật trở về bản quốc. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ bảy.
Ở tịnh thất này tất cả cung điện lộng lẫy, đẹp đẽ của chư Thiên và các Tịnh độ của chư Phật đều hiển hiện ở tịnh thất này. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ tám.
Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tịnh thất này thường hiện tám pháp chưa từng có, khó được như vậy. Ai đã thấy biết những việc bất tư nghì như thế mà lại còn ưa thích những pháp Thanh văn!
9.- Ông Xá Lợi Phất hỏi: Tại sao thiên nữ không chuyển đổi nữ thân?
Thiên nữ nói : Từ mười hai năm, tôi tìm cái tướng nữ thân không có. Tôi biết phải chuyển gì? Ví như huyễn sư hóa làm người nữ huyễn. Nếu có người hỏi: “Vì sao không chuyển nữ thân”. Câu hỏi đó có đúng lý không?
Ông Xá Lợi Phất đáp: Không đúng. Đã huyễn thì không có tướng cố định. Biết chuyển cái gì!
Thiên nữ nói: Tất cả các pháp cũng như vậy. Không có tướng cố định. Thế tại sao ngài hỏi tôi: “Vì sao không chuyển đổi nữ thân?”
Liền đó, thiên nữ dùng sức thần thông biến ông Xá Lợi Phất y như thiên nữ. Thiên nữ hóa mình y như ông Xá Lợi Phất và hỏi: “Vì sao ngài Xá Lợi Phất không chuyển nữ thân?”
Trong dáng mạo Thiên nữ, ông Xá Lợi Phất đáp: “Tôi không biết chuyển thế nào mà biến làm thân nữ như vầy”.
Thiên nữ nói: Ngài Xá Lợi Phất mà có thể chuyển ra thân nữ như thế thì tất cả người nữ sẽ có thể chuyển được. Ngài Xá Lợi Phất không phải nữ mà hiện thân nữ thì tất cả người nữ không phải nam lại cũng có thể hiện thân nam. Ngài Xá Lợi Phất dù hiện thân nữ mà không phải nữ. Thế cho nên Phật nói: “Tất cả pháp phi nam phi nữ”.
Ngay bấy giờ, Thiên nữ thâu nhiếp thần lực, ông Xá Lợi Phất hoàn hình như cũ.
- Thiên nữ hỏi: Hình mạo nữ thân của ngài ở đâu?
- Xá Lợi Phất đáp: Hình mạo nữ thân của tôi không ở đâu, không đâu chẳng ở.
- Tất cả các pháp cũng lại như vậy. Không ở đâu, không đâu chẳng ở. Cái đạo lý:
không ở đâu, không đâu chẳng ở là chân lý đức Phật đã nói ra.
- Thiên nữ! Người chết ở cõi này rồi sẽ sanh ở đâu?
- Đức hóa Phật sanh đâu, tôi sanh ở đó.
- Sự sanh của đức hóa Phật không có chết và cũng không có sanh.
- Chúng sanh cũng vậy. Không có chết cũng không có sanh.
- Chừng nào người được quả vô thượng Bồ Đề, thưa Thiên nữ?
Bồ đề.
- Chừng nào ngài Xá Lợi Phất trở lại làm phàm phu thì tôi mới thành vô thượng
- Tôi không bao giờ trở lại làm phàm phu.
- Thì tôi cũng không bao giờ được quả vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì Bồ đề “vô sở
trụ”. Thế nên Bồ đề không có cái được.
- Chư Phật đã được, đang được và sẽ được vô thượng Bồ đề nhiều như số cát sông
Hằng. Điều đó gọi là gì?
- Đó là dựa trên văn tự và số mục của thế gian tục đế mà có ba đời, chứ không phải quả vô thượng Bồ đề có quá khứ, hiện tại, vị lai.
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ngài được quả A la hán chứ?
- Không có được, mà được.
- Chư Phật và Bồ tát cũng vậy. Không có được cho nên được.
Ông Duy Ma Cật nói với ông Xá Lợi Phất: Thiên nữ này từng cúng dường chín mươi hai ức đức Phật, đã được thần thông du hí, đầy đủ sở nguyện Bồ tát được vô sanh nhẫn, trụ bất thối chuyển địa. Do bổn nguyện giáo hóa chúng sanh, có thể hiện thân tùy theo ý muốn.
TRỰC CHỈ
1.- Quán tức là chữ Quan. Nếu đọc là Quan thì có nghĩa là quan sát.Quan sát là nhìn sự vật bằng cách đưa mắt mà trông mà nhìn. Nhìn đến đâu thấy đến đấy.Lệch khỏi tầm nhìn thì không thấy được. Khi đọc là Quán, có nghĩa là quán chiếu. Thấy bằng quán chiếu, cái thấy này không cần phải trông, nhìn ở nơi sự vật. Cái quán chiếu là thấy bằng trí tuệ và biết bằng trí tuệ.
Chúng sanh, không riêng gì loài hữu tình mới gọi là chúng sanh. Với Phật pháp, tất cả vạn loại vô tình cũng là chúng sanh. Các loài hữu tình gọi là hữu tình chúng sanh. Vạn loại vô tình thì gọi là vô tình chúng sanh.
Quán chúng sanh ở chương này là quán cả hai loại chúng sanh.
Dưới tuệ nhãn của một đại sĩ qua sự quán chiếu của mình, Bồ tát thấy chúng sanh:
- Như người huyễn.
- Như trăng trong nước.
- Như sóng nắng trưa ngày hè.
- Như vang của tiếng.
- Như mây trên không trung.
- Như bọt trên mặt nước.
- Như bong bóng dưới cơn mưa.
- Như sụ cứng chắc của cây chuối.
- Như sự dừng lâu của tia chớp.
- Như đại thứ tám, ấm thứ sáu, nhập thứ mười ba, giới thứ mười chín.
Tất cả những thứ đó, ý muốn nói: đó là những thứ không có. Không hề có từ trước tới nay và từ nay về sau cũng vĩnh viễn không có.
- Sắc trong cõi vô sắc.
- Mầm của hạt thóc ran.
- Thân kiến của Tu dà Hoàn.
- Đầu thai của A na Hàm.
- Tam độc của A la Hán.
- Tham, sân, si của Bồ tát.
- Phiền não của Phật.
- Sự thấy sắc của người mù.
- Dấu chim trong hư không.
- Con của người thạch nữ.
- Sự phẩn nộ của hóa nhơn.
- Chiêm bao lúc thức.
Tất cả những thứ đó là những thứ chỉ có danh mà không hề có thật. Bồ tát quán chúng sanh như tất cả những thứ đó. Thế thì qua tuệ nhãn của Bồ tát, tất cả chúng sanh có, nhưng không thật có, vì nó không trường cữu, không bền chắc. Nó chỉ là hiện tượng. Nó là hiện tượng trong vô vàn hiện tượng vạn pháp mà thôi.
Do vậy, trước nhãn quang của đại sĩ: Vạn pháp giai không. Cho nên chúng sanh cũng không có thật.
2.- Đáp câu hỏi của Đại trí Văn Thù, Trưởng giả Duy Ma Cật nói:
Thực hiện hạnh từ có thể biểu thị nhiều cách từ ý nghĩ đến hành động cụ thể giúp cho chúng sanh có an vui hạnh phúc trong đời sống của họ. Tuy nhiên sự hạnh phúc an vui trong cuộc sống vật chất chưa có giá trị chơn thật, nếu nguồn sáng trí tuệ của họ chưa được phát huy.
Bồ tát thực thiện hạnh từ, phải quán triệt những chân lý vô thường, khổ, không, vô ngã như thế mà khai thị, khiến cho chúng sanh tỏ ngộ thâm sâu. Chừng đó chúng sanh có được sự an vui hạnh phúc thật sự và lâu dài.
Đó là cách Bồ tát thực hành hạnh từ chơn thật. Và chỉ có cách đó mới đuợc xem là chơn thật từ.
Triển khai rộng về lòng từ, Bồ tát vận dụng:
Tich diệt từ. Bất nhiệt từ. Bình đẳng từ. Vô tránh từ. Bất hoại từ. Kiên cố từ. Thanh tịnh từ. Vô biên từ. La hán từ. Bồ tát từ. Vô đẳng từ. Đại bi từ. Vô yếm từ. Pháp thí từ. Trì giới từ. Nhẫn nhục từ. Tinh tấn từ. Thiền định từ. Trí tuệ từ. Phương tiện từ. Vô ẩn từ. Thâm tâm từ. Vô cuống từ. An lạc từ.
Qua bao nhiêu danh tự ấy, người đệ tử Phật thấy rằng, lòng từ trong đạo Phật có thể vận dụng trong cuộc sống ở khắp mọi nơi chốn, mọi thời gian. Lòng từ của đạo Phật không gói gọn trong ý niệm của một tiếng làm lành trừu tượng ấy.
Lòng từ bi của một Bồ tát là khi Bồ tát làm được bao nhiêu công đức lành đều cho hết chúng sanh.
Thấy chúng sanh được lợi lạc, Bồ tát vui mừng khen ngợi không hề có ý tị hiềm.
Đó là hỷ tâm của Bồ tát.
Bồ tát làm tất cả việc lợi ích chúng sanh mà không thấy mình là kẻ thi ân và người thọ lãnh không có ý mong chờ hy vọng ở sự đền ơn. Xả tâm của Bồ tát là như thế.
3.- Sanh tử, ưu bi, khổ não là việc đáng sợ, người trí phải tìm cho mình một con
đường an ổn.
Muốn được an ổn phải nương nơi nghị lực và công đức Như lai. Phải trụ tâm ở chỗ cứu độ chúng sanh thoát khổ.
Muốn độ thoát chúng sanh phải từ bỏ phiền não. Muốn từ bỏ phiền não phải thực hành chánh niệm.
Muốn thực hành chánh niệm phải thực hành bất sanh bất diệt.
diệt.
Muốn thực hành bất sanh bất diệt phải biết pháp bất thiện bất sanh, pháp thiện bất
- Pháp thiện và bất thiện thân là gốc.
- Thân thì do dục và tham lam làm gốc.
- Dục và tham lam do hư vọng phân biệt làm gốc.
- Hư vọng phân biệt do mộng tưởng điên đảo làm gốc.
- Mộng tưởng điên đảo do vô trụ làm gốc.
- Truy cứu đến cùng: Vô trụ thì không có gốc.
Không có gốc tức là đồng nghĩa với chẳng có gì mà an bày tất cả pháp.
Do vậy: Vạn pháp gốc của nó là chẳng có gì. Bản chất của vạn pháp là giai không.
4.- Việc Thiên nữ rải hoa cúng dường, hoa rơi đến các Bồ tát, rồi hoa rớt xuống một cách bình thường. Hoa rơi trúng các đệ tử Thanh văn, hoa dính lại trên người đến nổi phủi cũng không rớt. Hàng Thanh văn thấy hoa vừa đẹp vừa thơm. Thưởng thức cái đẹp, cái thơm e rằng mình bị phạm giới.
Bồ tát đối sắc đẹp hương thơm thọ dụng xuyên qua nhất thiết chủng trí. Cho nên với Bồ tát “Kiến sắc phi can sắc, văn hương bất nhiễm hương”. Có hoa xem như không, thì cần gì phải phủi.
Sự kiện này, do người bất tư nghì dàn dựng cảnh bất tư nghì nhằm nói pháp bất tư nghì để dạy cho mạt thế chúng sanh về trí tuệ và nghị lực của con người, nó hoàn toàn tùy thuộc ở mọi người.
Ý chí bất khuất không sợ ma, không bao giờ có ma đối với chàng dũng sĩ kiên cường ấy.
5.- Ông Xá Lỡi Phất hỏi Thiên nữ ở tại tịnh thất của ngài Duy Ma Cật lâu mau rồi? Qua trí tuệ của Đại thừa, nghe câu hỏi đó liền sanh tâm thương hại cho trí tuệ Tiểu thừa.
Lấy cái gì làm tiêu chuẩn, đo đạt thời gian. Lấy sự cũ mới của ngôi nhà! Hay sự
cao thấp của vườn cây?
Nhà cũ là cũ của nhà. Cao thấp là cao thấp của vườn cây. Thời gian không vì cũ
của nhà, không vì cao thấp của vườn cây mà cho rằng thời gian có lâu có mau!
Phải học Thiền và Quán đề tài: Thập thế cách pháp dị thành môn, mới hiểu biết vấn đề thời gian không sai chân lý.
6.- Thông thường, người ta cho rằng người có chứng đắc, mới có được biện tài. Sự hiểu biết của trình độ Tiểu thừa như ông Xá Lợi Phất cũng chưa vượt qua cái lẽ thông thường đó.
Với tri kiến Đại thừa, dù được Bồ đề Niết bàn chỉ là sự trở về đến chỗ cũ của tự
tánh mình.
7.- Người đạt đến trình độ trí tuệ Đại thừa, thì lại xóa bỏ hết mọi ý tưởng câu nệ về thừa. Có vậy mới có thể làm lợi ích cho mọi tầng lớp chúng sanh. Cũng như người lái xe giỏi, có lúc cần phải vượt trái luật lệ giao thông, miễn là cứu được mạng người và tránh được sự thiệt hại vật chất.
8.- Tịnh thất của ngài Duy Ma Cật, thỉnh thoảng có Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên vương, Thiên long, quỷ thần đến nghe ngài Duy Ma Cật thuyết chánh pháp. Bởi vì ngài Duy Ma Cật lúc nào cũng nhớ chánh pháp, hành chánh pháp, nói chánh pháp và sống trong chánh pháp. Cũng như nhà của chúng sanh bạc địa phàm phu, ngày ngày sống trong vô minh, tam độc, trong lục đục thất tình thì nhà này thường có súc sanh, ngạ quỷ và người địa ngục…vào ra rộn rịp, không có lúc nào tạm vắng.
9.- Xử dụng nhất thiết chủng trí, qua tánh tướng Thập như thị : Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh. Vạn pháp đều như. Mỗi pháp có tánh như của nó. Nghĩa là tánh của nó như vậy. Tướng của nó như vậy. Thể chất của nó như vậy. Lực dụng của nó như vậy. Tạo tác của nó như vậy. Nhơn cấu tạo ra nó như vậy. Duyên hình thành nó như vậy. Kết quả ra nó như vậy. Và chung qui như vậy mà thành ra nó và nó là nó như vậy.
Nhìn vạn pháp qua trí tuệ đó, thì tướng nữ, nam không còn là vấn đề để bình luận. Nam hay nữ chỉ là nhơn duyên biến hiện như thị. Bản thể của cái tướng nữ, nam chung cùng không nam không nữ.
Cũng không có vấn đề chết đâu,sanh đâu. Sống chết ví như sự nổi chìm của sóng bọt trên mặt đại dương. Sự nổi chìm đó không làm cho nước biển có tăng giảm chút nào. Còn quan tâm đến vấn đề “chết từ cõi nào, sanh đến cõi này”, điều đó đủ nói rõ tầm hiểu biết của người Tiểu thừa cạn cợt, chỉ biết nước qua sóng bọt mà chưa biết được sóng bọt còn có nước biển tồn tại vĩnh cữu với thời gian. Dù vậy, sóng và nước đời đời vẫn bất ly mà bất tức.
Chư Phật đã được, đang được và sẽ được vô thượng Bồ đề nhiều như số cát sông Hằng. Đó là dựa trên ngôn ngữ, văn tự và số mục của thời gian và tùy thuận thế gian mà nói chứ vô thượng Bồ đề không có quá khứ, hiện tại và vị lai.
chung.
“Như Lai giả vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”. Vô thượng Bồ đề là quả vị vô thỉ vô
Vô thượng Bồ đề tức là bản thể chơn như của vạn pháp. Sống đúng hợp với chân lý của vạn pháp tức là người trở về nguyên quán, về đến Bảo sở chơn như mà mình lưu lạc tự bấy lâu nay.










CHƯƠNG THỨ 8: CON ĐƯỜNG PHẬT
1.- Bồ tát Văn thù Sư Lợi nói:
Thưa ngài Duy Ma Cật! Bồ tát phải làm gì để con đường Phật được thông suốt? Ông Duy Ma Cật đáp: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ tát muốn con đường Phật
được thông suốt, phải đi con đường ngược lại. Đi con đường ngược thì con đường Phật sẽ
thông suốt.
Bồ tát Văn Thù hỏi: Đi con đường ngược, Bồ tát phải đi như thế nào?
Ông Duy Ma Cật đáp: Bồ tát đi vào ngũ vô gián mà không buồn rầu giận dữ. Vào địa ngục mà tự tâm không có tội lỗi cấu uế. Đến với súc sanh mà không có vô minh, kiêu mạn. Đến với ngạ quỷ mà đầy đủ công đức lành. Đi vào con đường dục giới, sắc giới, chẳng cho đó là được may mắn hơn.
Giả đi vào con đường tham dục mà xa lìa các sự đắm nhiễm dính mắc. Giả đi vào con đường sân nhuế mà đối với chúng sanh không giận dữ thù hằn. Giả đi vào ngu si mà thường dùng trí tuệ điều phục tâm mình. Giả đi vào con đường xan tham mà xả bỏ thân tâm, của cải cho đến thân mạng cũng không lẫn tiếc. Giả đi vào đường phạm giới mà tâm an trụ tịnh hạnh, dù tội lỗi nhỏ cũng răn sợ không cho sai phạm. Giả đi vào con đường giải đải mà hằng siêng tu công đức thiện. Giả đi vào đường loạn ý mà thường nhiếp niệm định tâm. Giả đi vào con đường ngu si mà thông hiểu hết việc thế gian và xuất thế gian một cách đúng đắn. Giả đi vào con đường siểm trá mà khi kết quả thì đúng với ý nghĩa kinh, hợp lời Phật. Giả đi vào con đường kiêu mạn mà thực chất là làm cầu đường chuyên chở chúng sanh. Giả đi vào con đường phiền não mà tâm thường thanh tịnh trong sáng. Giả đi vào con đường ma mà thuận theo trí tuệ Phật không nghe theo sự cám dỗ của bọn ma. Giả đi vào đường Thanh văn mà giáo hóa chúng sanh bằng pháp đại thừa. Giả đi vào đường Bích chi Phật mà đi truyền đạt cho chúng sanh tư tưởng đại bi của Phật. Giả đi vào hàng nghèo khó mà của báu công đức trong tay vô tận. Giả đi vào đường trau dồi trang điểm sắc diện như người thường mà đầy đủ các tướng hảo tự trang nghiêm thân. Giả đi vào đường hạ tiện mà thực chất sanh trong dòng Phật, bên trong có đầy đủ công đức. Giả đi vào vào đường của hạng người quê mùa, yếu đuối mà thực chất được thân tráng kiện na la diên, chúng sanh đều rất ưa nhìn. Giả đi vào đường lão bệnh mà dứt hẳn bệnh căn, vượt ra sự sợ sệt chết chóc. Giả đi vào đường kinh doanh sinh sống mà hằng quán vô thường, không để lòng tham luyến. Giả có thê thiếp mà thường viễn ly bùn lầy ngũ dục. Giả hiện như người đần độn mà biện tài vô ngại, nhớ ghi không sót. Giả đứng vào phe tà mà lấy chánh lý giúp hộ chúng sanh. Giả hiện đi vào luân hồi mà đoạn hết nguyên nhân sanh tử, ưu bi khổ não. Giả hiện ở Niết bàn mà không dứt hết hạt giống sanh tử.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Nếu Bồ tát đi vào con đường trái ngược như thế, Bồ
tát sẽ đi một cách thông suốt con đường Phật.
2.- Ông Duy Ma Cật hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng:
- Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Xin ngài cho biết những gì là hạt giống Như Lai?
- Văn Thù Sư Lợi đáp: Thân là hạt giống Như lai. Vô minh, ái là hạt giống Như lai. Tham, sân, si là hạt giống Như lai. Tứ đảo, ngũ cái, lục nhập, thất tình. cửu não, thập bất thiện nghiệp là hạt giống Như lai. Nói tóm lại, 62 thứ kiến chấp và tất cả các phiền não đều là hạt giống Như lai.
- Nói thế nghĩa là gì?
- Nghĩa là những tâm và tâm sở pháp có tánh chất phiền não, vô minh đó là hạt giống Như lai Phật. Ngược lại, nếu người tỏ ngộ vô vi, chứng nhập chánh vị thì không thể phát tâm hướng đến vô thượng Bồ đề. Ví như cao nguyên và đất gò, sen không thể mọc được thì còn mong gì trổ được hoa. Chỉ có đất thấp, bùn lầy, hoa sen mới sanh trưởng. Cũng như vậy, người ngộ vô vi pháp, chứng nhập chánh vị không cần sinh hoạt ở trong Phật pháp nữa. Chỉ có chúng sanh ở trong bùn lầy phiền não, mới phát khởi lòng mong cầu Phật pháp mà thội. Cũng như trồng cây trong hư không, cây không thể sanh trưởng. Phải trồng ở chỗ có đất phân, cây mới tươi tốt sum suê. Cũng vậy người chứng nhập vô vi chánh vị không còn điều kiện để sanh trong Phật pháp, thà kiến chấp to như núi Tu Di mà họ còn có cơ hội phát tâm cầu vô thượng Bồ đề, sanh trong Phật pháp. Thế cho nên phải biết rằng: Tất cả phiền não là hạt giống Như lai. Ví như không lặn xuống biển sâu, không thể có được bảo châu vô giá. Không vào biển lớn phiền não, không thể có nhất thiết trí vô giá Như lai.
3.- Ông Ca Diếp tán thán rằng: Ôi! Tuyệt diệu thay! Tuyệt diệu thay! Những lời nói của ngài Đại trí Văn Thù Sư Lợi! Thật đúng vậy! Bè lũ phiền não là hạt giống Như lai. Hàng Thanh văn chúng tôi không kham nổi việc phát tâm vô thượng Bồ đề. Đến như người thọ tội ngũ vô gián hãy còn có thể phát tâm sanh trong Phật pháp. Nay chúng tôi mất hẳn ý chí cầu vô thượng đạo. Ví như người thui chột các căn, đối với ngũ dục chẳng còn tương quan tiếp thọ được gì. Hàng Thanh văn đoạn hết phiền não kiết sử, trong Phật pháp hết đường nhờ cậy, vì chí nguyện đã dứt mất hẳn rồi. Thế cho nên, thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Người bạc địa phàm phu đối với Phật pháp còn có cơ may trở lại, mà hàng Thanh văn thì đã tuyệt phần. Bởi vì, phàm phu nghe Phật pháp, có thể phát khởi vô thượng đạo tâm, chứ hàng Thanh văn dù có nghe Phật pháp trọn đời, vĩnh viễn không thể phát ý hướng về vô thượng đạo.
4.- Trong pháp hội có Bồ tát tên Phổ Hiện Sắc Thân, hỏi ông Duy Ma Cật:
Thưa cư sĩ! Cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc, bạn lành trí thức của ngài là những ai? Nô tì, đồng bộc, ngựa, voi, xe, kiêïu Ngài để ở chỗ nào?
Ông Duy Ma Cật đáp lời qua bài kệ:
Trí độ làm mẹ Bồ tát Phương tiện lấy làm cha Tất cả các đạo sư
Đều do đó mà có. Lấy pháp hỷ làm vợ Con gái: từ bi tâm
Con trai: chính tâm lành Rỗng lặng: nhà thường trú. Đệ tử: các trần lao
Sai khiến theo ý muốn Đạo phẩm: thiện trí thức Do vậy thành chánh giác. Lục độ pháp: bạn bè Pháp tứ nhiếp:kỷ nữ
Ca vịnh: tụng pháp âm.
Hoa viên là tổng trì Pháp vô lậu: rừng cây Giác ý: hoa tịnh diệu Trí tuệ giải thoát: trái. Ao tắm pháp bát giải Nước định lóng sẳn đầy
Ngâm ướp bông thất tịnh Tắm gội người vô cấu. Voi ngựa cỡi: ngũ thông Đại thừa làm xe kiệu
Xà ích: trụ nhất tâm Dạo đi đường Bát chánh. Tướng hảo để đẹp người Đức tốt làm trang sức Tàm quí làm xiêm áo Thâm tâm làm tràng hoa Thất tài bảo: sự nghiệp Giáo hóa làm lợi tức.
Việc làm đúng lời nói
Hồi hướng là lợi lớn
Tứ thiền làm giường ngồi Sống ở đời tịnh mệnh. Đa văn: tăng trí tuệ
Trí tuệ: tiếng cõi lòng
Pháp cam lộ: thức ăn Vị giải thoát: giải khát . Tịnh tâm là tắm gội
Giới phẩm làm hương xoa Đánh tan giặc phiền não Mạnh mẽ không ai hơn. Hàng phục bốn giống ma Dựng cờ đại chiến thắng Dù biết không khởi diệt Dạy dỗ: hiện có sanh. Xuất hiện khắp cõi nước
Như mặt nhựt trong không Cúng dường mười phương cõi Vô lượng ức Như lai.
Chư Phật và bản thân Không có tướng phân biệt Dù biết cõi nước Phật
Và chúng sanh đều không Mà thường tu Tịnh độ Giáo hóa hết quần sanh.
Bao chủng loại chúng sanh Hình thành và cử chỉ Lực vô úy Bồ tát
Một thời đều hiện đủ.
Biết rõ các ma sự
Mà giả hiện tùy thân Dùng trí phương tiện khéo Hiện theo ý bọn ma.
Hoăïc hiện già, bịnh, chết Giáo hóa các quần sanh Rõ biết như huyễn hóa Việc làm không trở ngại. Hoặc hiện kiếp thiêu hết Trời đất đều trống không
Mọi người có tưởng thường
Khiến được biết vô thường.
Vô số ức chúng sanh Đồng đến mời Bồ tát Cùng một lúc đến nhà Dạy họ về Phật đạo. Kinh sách, chú thuật tà Thủ công, công kỹ nghệ Hiện làm hết việc này
Vì lợi ích chúng sanh.
Các đạo pháp thế gian Xuất gia vào trong đó Để chỉ rõ chỗ sai
Khiến khỏi rơi tà kiến. Có lúc làm nhật nguyệt Làm Thế chủ, Phạm vương Có lúc làm đất nước
Có khi làm gió lửa. Trong đời có dịch bệnh Hiện làm cây cỏ thuốc Nếu có người được uống Bệnh khổ được dứt trừ. Thời kỳ có đói kém
Thân hiện các thức ăn Cứu đói khát cho người Sau đem Phật pháp dạy. Đời sắp nổ binh đao
Đem đạo từ bi thuyết Hóa độ các chúng sanh Xóa bỏ lòng tranh chấp. Nếu chiến tranh bùng nổ Đứng giữa thế cân bằng Hiện uy thế Bồ tát
Thuyết phục khiến hòa an.
Trong tất cả quốc độ Chỗ nào có địa ngục Liền đến vào nơi đó Giúp họ khỏi khổ đau. Trong tất cả cõi nước Súc sanh ăn nuốt nhau Hiện sanh vào trong đó
Khiến chúng được lợi lành.
Giả bằng lòng ngũ dục Lại biểu hiện hành thiền Khiến tâm ma rối loạn Không đễ bị lung lay. Hoa sen sanh trong lửa Chuyện hi hữu trên đời
Trong ngũ dục hành thiền Hi hữu cũng như vậy. Hoăïc hiện làm dâm nữ Dụ những người háo sắc Trước lấy dục trói lại
Sau kéo vào Phật trí.
Hoặc làm người quốc trưởng Hoặc làm chủ thương thuyền Quốc sư, Đại thần tốt
Để giúp ích chúng sanh. Với những người nghèo khó Hiện làm kho vô tận
Nhơn đó khuyến hóa người
Phát khởi Bồ đề tâm. Với hạng người kiêu mạn Hiện làm đại lực sĩ
Triệt tiêu các cống cao Khiến trụ vô thượng đạo. Ai lâm cảnh sợ sệt
Trước họ an ủi cho
Xua tan niềm sợ hãi Sau khiến phát đạo tâm. Hoăïc hiện ly dâm dục Làm ngũ thông tiên nhân Mở lối các quần sanh Khiến trụ giới nhẫn từ. Thấy ai cần phụng sự Hiện làm người tôi tớ Phục vụ đẹp ý chủ
Sau khiến phát đạo tâm. Dùng phương tiện khéo léo Cung dưỡng mọi nhu cầu Con đường đạo vô lượng
Sở hành không bến bờ. Trí tuệ không ngằn mé Độ vô số chúng sanh Giả sử tất cả Phật Trong vô số ức kiếp. Tán thán công đức kia
Hãy còn không cùng tận Ai nghe pháp như thế Không phát tâm Bồ đề! Trừ người mất giống Phật Kẻ vô trí quá đần.
TRỰC CHỈ
1.-Để trả lời câu hỏi của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi: “Bồ tát phải làm gì để đi con
đường Phật được thông suốt, không bị trở ngại”.
Ông Duy Ma Cật đáp: “Bồ tát hành phi đạo thị vi thông đạt Phật đạo”. Nghĩa là muốn đi theo con đường Phật được thông suốt thì Bồ tát phải đi ngược lại con đường chúng sanh đi.
Đường của chúng sanh là: “thuận lưu sanh tử”. Xuôi theo dòng chảy của sanh tử
mà đi. Thế cho nên, muốn đi con đường Phật, Bồ tát phải đi ngược dòng sanh tử ấy.
Đi ngược dòng sanh tử nhưng không rời bỏ, tránh né hay trốn chạy. Ý niệm rời bỏ, tránh né, trốn chạy sanh tử hy vọng có được Bồ đề Niết bàn. Với đạo Phật, việc đó không bao giờ có được. Người nông gia sợ bùn, đất, phân nước thấm ướt tay chân chỉ muốn trồng cây gieo giống trong hư không để rồi chờ thời thâu hoạch kết quả. Ý tưởng đó nếu có thì đó là ý tưởng hoang đường của kẻ ngu si vô trí.
Ý tưởng rời bỏ trốn chạy sanh tử, không tu tâm sửa tánh, không cải tạo phiền não vô minh ngay trong cuộc sống sanh tử, ngồi không nằm rỗng đối với thế cuộc xem mình như kẻ ăn xổi ở thì, lơ lững thả hồn hy vọng Bồ đề Niết bàn một ngày nào đó sẽ đến. Ý tưởng đó, ở trong Phật pháp cũng là một ý tưởng hoang đường của chàng nông gia vô trí kia không hơn không kém.
2.-”Những gì là hạt giống Như Lai?”. Trả lời câu hỏi đó của ông Duy Ma Cật, Bồ
tát Văn Thù nói:
- Thân là hạt giống Như lai.
- Vô minh là hạt giống Như lai.
- Tham sân si là hạt giống Như lai.
- Tứ đảo, ngũ cái, lục nhập, thất tình, bát tà, cửu não, thập bất thiện nghiệp là hạt giống Như lai.
- Nói chung 62 thứ kiến chấp là hạt giống Như lai.
Trước tuệ nhãn của Đại trí Văn Thù Sư Lợi thì tất cả phiền não là hạt giống Như Lai. Có nghĩa là muốn thành Phật thì dựa trên vô minh phiền não mà cải tạo chuyển hóa vô minh phiền não. Chuyển hóa từng phần lượng cho đến khi biến đổi hoàn toàn chất lượng vô minh. Trừ bỏ vô minh phiền não, con người không còn lý do để thành Như Lai
Phật. Không xuống biển sâu không thể có được bảo châu vô giá, không thể có nhất thiết chủng trí Như lai vô giá.
3.- Nhân danh hàng định tánh Thanh Văn, ông Đại Ca Diếp thay mặt đại chúng nói lên sự hối tiếc về trí tuệ hẹp hòi kém cỏi của người Tiểu thừa đối với giáo lý vô thượng thậm thâm vi diệu pháp của Đại thừa.
Thà làm hàng bạc địa phàm phu còn có cơ hội phát tâm cầu vô thượng Bồ đề. Còn hàng định tánh Thanh Văn đối với quả Bồ đề vô thượng chẳng khác người tàn phế ngũ căn, không tiếp nhận được gì trước cảnh sắc, thanh, hương, vị xúc.
4.- Trả lời câu hỏi của Bồ tát Phổ Hiện Sắc Thân, ngài Duy Ma Cật nói về gia đình, sự nghiệp, quyến thuộc thân bằng, nô tì, đồng bộc, vườn rừng, ao tắm ,kỷ nữ, ngựa xe v.v…của chính ngài. Từ đó khiến cho người học đạo thấy rằng ngài không phải là một cư sĩ mà gọi là cư sĩ vậy thôi.
Sự thực, cư sĩ Duy Ma Cật là một hình thức dàn dựng ra một người bất tư nghì để trình diễn Phật sự bất tư nghì nhằm giáo hóa chúng sanh về đại thừa diệu pháp bất tư nghì.
“Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Có phải chăng, người triết gia Tây phương nào đó đã
đọc được kinh này?
Chiếc áo thầy tu một khi lọt vào tay thợ săn điêu ngoa xử dụng, chiếc áo đó trở thành một thứ cạm bẫy sát sanh đoạn mạng. Con sư tử có bộ lông vàng hiếm quí, chết một cách oan ức đau thương chỉ vì chiếc áo và lầm tưởng chiếc áo tu sĩ của tên thợ săn độc ác kia là chiếc áo của vị tu sĩ chân tu mà ngày ngày mình thường lân la thân cận.
Dựng lên một trưởng giả Duy Ma Cật bất tư nghì để nhắc nhở cho mọi người đệ tử Phật muốn tiến thân trên đường Bồ đề vô thượng cần phải cảnh giác về chiếc áo…và có thể không cần chiếc áo, lại có thể chính thực thầy tu…









CHƯƠNG THỨ 9: CHỨNG NHẬP PHÁP MÔN KHÔNG HAI
1.- Ông Duy Ma Cật long trọng nói với các Bồ tát rằng:
Thưa chư nhơn giả! Tôi xin trân trọng đề nghị chư Bồ tát trong hội này, mỗi người tự trình bày sự chứng đắc và thể nhập pháp môn không hai của một Bồ tát như thế nào?
Trước hết vị Bồ tát hiệu là Pháp Tự Tại trình bày: Thưa chư nhơn giả! Sanh và diệt là hai. Vạn pháp xưa không sanh, nay không diệt. Tỏ ngộ được pháp nhẫn vô sanh đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Đức Thủ nói: Ngã và ngã sở là hai. Vì có ngã cho nên có ngã sở. Tôi nhận thức rằng nếu không có ngã thì không có ngã sở. Do duyên cớ đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Bất Thuần nói: Thọ và bất thọ là hai. Nếu đối với các pháp mà không thọ thì không có cái được. Ví không có cái được cho nên không có lấy, không có bỏ, không tạo tác không hành vi. Do nhận thức ấy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Đức Đảnh nói: Cấu và tịnh là hai. Thấy được thực tánh của cấu thì không có tướng tịnh. Đồng thời tùy thuận với tướng diệt của vạn pháp. Do tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Thiện Tú nói: Động tâm và niệm tưởng là hai. Nếu không động tâm thì không có niệm tưởng. Không có niệm tưởng thì không có phân biệt. Thông suốt được chân lý ấy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Thiện Nhẫn nói: Tướng nhất và tướng vô là hai. Nếu biết rõ tướng nhất tức là tướng vô, bấy giờ thể nhập tánh bình đẳng. Do quá trình nhận thức như vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Diệu Tý nói: Tâm Bồ tát và tâm Thanh văn là hai. Quán tướng của tâm rỗng không như huyễn như hóa, cho nên tôi không còn thấy tâm Bồ tát, tâm Thanh văn. Do triệt tiêu tánh chấp, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Phất Sa nói: Thiện và bất thiện là hai. Không khởi ý niệm thiện và bất thiện, nhận thức thấu suốt ngằn mé vô tướng của các pháp. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Sư Tử nói: Tội và phước là hai. Hiểu rõ tánh của tội và phước không khác. Dùng trí tuệ kim cương quyết đoán một cách dứt khoát mọi tình huống. Cho nên không thấy có ràng buộc và cũng không thấy có giải thoát. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Sư Tử Ý nói: Hữu lậu và vô lậu là hai. Có được tâm bình đẳng với các pháp thì không khởi tướng hữu lậu và vô lậu. Không dính mắc ở pháp tướng cũng không trụ chấp pháp tướng. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Tịnh Giải nói: Hữu vi và vô vi là hai. Xa lìa tất cả số thì tâm rỗng lặng như hư không. Dùng tuệ thanh tịnh mà nhìn vạn pháp cho nên không còn có sự trở ngại nào. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Na La Diên nói: Thế gian và xuất thế gian là hai. Tánh của thế gian rỗng không, cho nên thế gian cũng là xuất thế gian. Trong đó không có tướng đi vào, đi ra, không có tràn đầy, không có vơi cạn. Do nhận thức đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Thiện Ý nói: Sanh tử và Niết bàn là hai. Thấy được tánh của sanh tử thì không có sanh tử gì cả, cũng không có cột, không có mở, không có sanh không có diệt. Nhận thức rõ như thế, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Thiện Kiến nói: Tận và bất tận là hai. Vạn pháp hoặc rốt ráo tận hoặc rốt ráo bất tận đều là tướng vô tận. Tướng vô tận tức là không. Không thì không có tướng tận hay vô tận. Tỏ ngộ chân lý ấy, tôi thể nhập pháp môn klhông hai.
Bồ tát Phổ Thủ nói: Ngã và vô ngã là hai. Ngã hãy còn không có, vô ngã càng không thể có. Thấy được thật tướng của ngã thì không còn khởi quan niệm hai. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Điển Thiên nói: Minh và vô minh là hai. Thật tánh của vô minh là minh. Minh cũng không chấp thủ. Ly tất cả số. Trụ tâm trong bình đẳng không có ý niệm hai. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Hỉ Kiến nói: Sắc và không là hai. Sắc tức là không. Không phải sắc diệt mới không. Tánh của sắc tự không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Thức là tức không. Không phải thức diệt mới không. Tánh của thức tự không. Do quán triệt chân lý đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Minh Tướng nói: Sự sai khác của tứ đại và sự sai khác của Không đại là hai. Tánh của tứ đại tức là tánh của không đại. Bởi vì thời gian trước và thời gian sau đều không, cho nên thời gian khoảng giữa cũng không. Hiểu biết được như thế, cũng tức là nhận thức rõ tánh của các đại. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Diệu Ý nói: Nhãn căn và sắc trần là hai. Biết rõ tánh của nhãn căn và tánh của sắc trần ở giữa cắt đứt sự ái nhiễm. Thế là không còn tham, không còn sân, không còn si. Đó là trạng thái tịch diệt. Nhĩ đối thanh, Tỷ đối hương. Thiệt đối vị. Thân đối xúc. Ý đối với pháp cũng như vậy. Biết rõ tánh cũa ý căn và tánh của pháp trần, đoạn trừ sự ái nhiễm tham, sân, si. Đạt đến trạng thái tịch diệt. An trụ trong tỉnh giác như vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Vô Tận Ý nói: Bố thí và hồi hướng nhất thiết trí là hai. Tánh của bố thí tức là tánh của hồi hướng nhất thiết trí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ cũng như vậy.Tánh cũa trí tuệ tức là tánh hồi hướng nhất thiết trí. Ở trong đó hội nhập tướng nhất. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Thâm Tuệ nói: Không, vô tướng, vô tác là hai. Không tức vô tướng, vô tướng tức vô tác. Hiểu rõ không tức vô tướng. Vô tướng là vô tác thì tâm, ý và thức bấy giờ công dụng trở thành một. Bấy giờ một giải thoát môn tức ba giải thoát môn. Quán triệt chân lý đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Tịnh Căn nói: Phật, pháp và tăng là hai. Phật tức pháp, Pháp tức Tăng. Tam bảo đều là tướng vô vi, đồng như hư không. Tất cả pháp cũng vậy. Tùy thuận theo chân lý đó, thi vi hành sự. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Tâm Vô Ngại nói: Thân và thân diệt là hai. Thân tức là thân diệt. Thấy được thật tướng của thân thì không còn khởi chấp thân và sự hoại diệt của thân. Thân và sự hoại diệt của thân không khởi ý phân biệt là hai. Vì vậy, thân sinh tồn hay hoại diệt, không kinh hãi, không lo lắng sợ sệt. Tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Thượng Thiện nói: Thân, khẩu, ý là hai. Ba nghiệp đều là tướng vô tác. Tướng vô tác của thân tức là tướng vô tác của khẩu. Tướng vô tác của khẩu tức là tướng vô tác của ý. Tam nghiệp là tướng vô tác. Tất cả pháp cũng là tướng vô tác. Dùng tuệ vô tác nhận thức chân lý và tùy thuận chân lý ấy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Phước Điền nói: Làm phước làm tội, làm không phước không tội là hai. Thật tánh của ba việc là vắng lặng rỗng không. Không thì không thấy có làm phước, không thấy có làm tội, không thấy có làm không phước không tội. Không khởi ý niệm chấp mắc ở ba việc làm. Do vậy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Hoa Nghiêm nói: Từ bản ngã khởi chấp hai là hai. Biết được thật tướng của bản ngã không khởi chấp hai. Không khởi chấp hai thì không có cái biết và đối tượng bị biết. Quán triệt chân lý đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Đức Tạng nói: Có tướng sở đắc là hai. Không sở đắc thì không có tham lấy, không chê bỏ. Do trụ trong tướng bình đẳng không lấy bỏ, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Nguyệt Thượng nói: Tối và sáng là hai. Không tối không sáng thì không hai. Ví như nhập định diệt thọ tưởng, không còn nhận thức tối sáng. Đối với tất cả pháp tướng cũng như vậy. Hội nhập với tâm bình đẳng ấy, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Bảo Ấn thủ nói: Ham mộ Niết bàn, nhàm chán thế gian là hai. Không ham mộ Niết bàn, không nhàm chán thế gian thì không hai. Vì sao? Vì rằng ai có bị trói buộc mới mong cầu mở. Người không bị buộc trói còn hy vọng mở cái gì? Không bị buộc, không cần mở, cũng không nhàm chán, không có ham mộ. Thâm ngộ chân lý đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Châu Đảnh nói: Chánh đạo và tà đạo là hai. Trụ ở chánh đạo thì không phân biệt tà hay chánh. Do ly cái tướng hai, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Nhạo Thật nói: Thật và không thật là hai. Thật thấy hãy còn không thấy thật huống hồ không phải thật. Vì sao? Vì cái thấy của nhục nhãn không thể thấy đúng chân lý. Chỉ có tuệ nhãn mới thấy đúng chân lý. Tuệ nhãn không thấy gì hết nhưng không có gì không thấy. Do tỏ ngộ chân lý đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Các Bồ tát mỗi mỗi đều trình bày pháp môn sở ngộ của mình và kết quả cùng đến một mục đích: thể nhập pháp môn không hai.
2.- Các Bồ tát trong hội này đã nói hết rồi. Vậy xin Bồ tát Văn Thù Sư Lợi phát biểu phương pháp thể nhập pháp môn không hai của một Bồ tát.
Bồ tát Văn Thù nói: Theo ý tôi, tất cả pháp không nói được hết, không bàn tột được, không chỉ đúng được, không giải thích trọn vẹn được. Vì vượt ngoài những câu vấn đáp của ngữ ngôn văn tự. Khế hội chân lý đó thì đó là yếu tố thể nhập pháp môn không hai.
3.- Bồ tát Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật: Thưa cư sĩ! Chư Bồ tát đã trình bày xong. Giờ đây, xin nhơn giả cho biết cao kiến của ngài về phương pháp thể nhập pháp môn không hai của một Bồ tát?
Ông Duy Ma Cật lúc bấy giờ điềm nhiên an tọa. Đại chúng cả hội trường như nín thở trông chờ…
Ông Duy Ma Cật vẫn im lặng và im lặng…
Trong dáng vẻ hân hoan, cảm thông được diệu ý, Bồ tát Đại trí Văn Thù Sư Lợi nói: Siêu tuyệt thay! Siêu tuyệt! Pháp môn không hai siêu tuyệt! Bặt cả văn tự ngữ ngôn!
Đấy mới là cách thể nhập pháp môn không hai chí chân, chí thiện!
Sau khi trình bày những nguyên do và tâm đắc của mình trong quá trình thể nhập pháp môn không hai của ba mươi mốt Bồ tát. Trong số hội chúng có năm ngàn Bồ tát tỏ ngộ vô sanh pháp nhẫn đồng thể nhập pháp môn không hai.
TRỰC CHỈ
1.- Chứng nhập pháp môn không hai, kinh Duy Ma Cật không nhằm dạy cho người đệ tử tu hành phải tìm về con số một, hay cái một nào đó. Bởi vì chữ hai ở đây không phải là chữ “2″ ở số lượng như 1,2…cũng không phải chữ hai ở số thứ tự như: thứ hai, thứ ba…
Tránh số 2 trong lượng số, hy vọng trở lùi nắm giữ số 1 đã là vô ích, tránh thứ hai ở thứ tự số mục để mong cầu được số thứ ba, thứ tư thì cũng hoài công, không có tác dụng gì trên đường tiến tu đối với sự nghiệp giác ngộ.
Người đệ tử Phật, tu theo con đường Phật phải thận trọng lưu tâm.
Bồ tát Duy Ma Cật, đề nghị chư Bồ tát trình bày về phương cách, lý do, về yếu tố, dữ kiện, về hoàn cảnh, trường hợp chứng nhập pháp môn không hai của mình, nhằm dạy cho người đệ tử Phật tu hành phương thức: Hồi đầu thị ngạn, phương cách trở về Căn bản trí, tức là trí vô phân biệt vốn có của mọi người. Giáo lý của đạo Phật dạy rằng con người ai ai cũng có cái trí vô phân biệt đó. Vì vậy, tự tánh của mọi người vốn trong sáng thanh tịnh. Cái tự tánh trong sáng thanh tịnh đó chính là Phật tánh của mỗi người.
Con người bắt đầu có đau khổ từ khi con người sống trái Căn bản trí. Con người tự hủy hoại cái tánh trong sáng, thanh tịnh, hồn nhiên, thanh thoát của con người. Con người bắt đầu xử dụng cái trí hậu đắc, tức là cái trí phân biệt, cái trí rất kém cõi thường bị bao phủ bởi những lớp tạp tưởng vô minh phiền não. Với phân biệt trí khó mà nhận thức chân lý đúng đắn, nếu không có những giây phút thiền quán để tư duy phản tỉnh hồi đầu.
Muốn hồi đầu phản tỉnh cần có duyên cớ hoặc hoàn cảnh, hoặc sự nhận thức v.v… Ba mươi mốt Bồ tát thể nhập pháp môn không hai đều dựa vào sự tư duy nhận
thức hoặc duyên cớ nào đó do thấy, sự kiện nào đó do tư duy hoặc trường hợp nào đó do tiếp xúc…
Ba mươi mốt Bồ tát thể nhập pháp môn không hai, dựa trên những duyên cớ, những sự kiện nhận thức không đồng mà kết quả cũng đến mục đích: Vô trí phân biệt.
- Sanh và diệt.
- Ngã và ngã sở.
- Thọ và bất thọ.
- Cấu và tịnh.
- Động tâm và niệm tưởng.
- Tướng nhất và tướng vô.
- Tâm Bồ tát và tâm Thanh văn.
- Thiện và bất thiện.
- Tội và phước.
- Hữu lậu và vô lậu.
- Hữu vi và vô vi.
- Thế gian và xuất thế gian.
- Sanh tử và Niết bàn.
- Tận và bất tận.
- Ngã và vô ngã.
- Minh và vô minh.
- Sắc và không sắc.
- Tứ đại và không đại.
- Nhãn căn và sắc trần.
- Bố thí và hồi hướng nhất thiết trí.
- Không, vô tướng, vô tác.
- Phật, Pháp và Tăng.
- Thân và thân diệt.
- Thân, khẩu, ý.
- Làm phước, làm tội, làm không phước không tội.
- Từ bản ngã, khởi chấp.
- Có tướng sở đắc.
- Tối và sáng.
- Ham mộ Niết bàn, nhàm chán thế gian.
- Chánh đạo, tà đạo.
- Thật và không thật.
Ba mươi mốt đề mục được xem là Hai và dựa trên tướng hai đó mà tư duy quán sát rồi phản tỉnh hồi đầu, ba mươi mốt vị Bồ tát đều chứng nhập pháp môn không hai.
Ba mươi mốt cặp phạm trù đối đải ấy, nhận xét kỹ, ta thấy có đề mục chỉ có một. Như đề mục Có tướng sở đắc, lại có những đề mục không phải hai mà có đến ba. Như đề mục Phật, Pháp, Tăng. Đề mục Thân, khẩu, ý. Đề mục Không, vô tướng, vô tác. Đề mục Làm phước, làm tội, làm không phước không tội.
Ấy thế mà tất cả đều được xem là hai.
Do vậy, ta cũng thấy rõ kinh dạy qua vấn đề chứng nhập pháp môn không hai, như trước đã nói. Chứng nhập pháp môn không hai mục đích không phải chối bỏ số hai để lùi về số một. Cũng nhằm tránh né số hai để có được số ba, bốn, năm.
2.- Đến lượt Bồ tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi, ngài cho rằng: Đã là pháp môn không hai thì ngôn từ không bàn luận đến được. Văn tự không mô tả được. Nghĩ ngợi đến ba đã là sai rồi. Đến chỗ tuyệt đường đối đải thì có diễn đạt hoa mỹ, khéo léo cách nào cũng không phải cái đó. Vì cái đó, chỗ đó, nó ở vào lãnh vực Bất khả tư nghì. Chỉ ai chứng mới biết mà thôi. Chữ chứng ở đây không có gì quá sức tưởng
tượng đâu các bạn ạ! Nó đồng nghĩa với cái từ chứng nước ở các tòng lâm miền Bắc nước Việt Nam ấy.
“Như nhơn ẩm thủy, lãnh noãn tự tri”. Chỉ có người chứng nước mới biết được nước ấm lạnh ở độ nào…người không chứng nước thì nghe để mà nghe, sự diễn tả của người chứng nước không làm cho người không chứng hiểu chính xác độ nóng lạnh, vị
ngọt ngon của tách trà thơm ngát ấy.
3.- Đến lượt ngài Duy Ma Cật trình bày phương cách chứng nhập pháp môn không hai của mình. Ngài biểu thị bằng thái độ im lặng thản nhiên. Đại chúng như hồi hộp và có ý trông chờ những gì sẽ diễn biến ra sau giây phút thản nhiên im lặng đó. Nhưng rồi không có gì nũa hết! Bồ tát Đại trí Văn Thù thông cảm sâu sắc, tận cùng ý niệm của nhau, như hai tấm gương đối diện cùng lồng bóng phản chiếu trước một cành hoa rực rở sắc màu.
Bồ tát Đại Trí Văn Thù chỉ tán thán trước sự biểu hiện lặng im mà không bình luận gì thêm nữa. Bồ tát Đại Trí Văn Thù tâm đắc và cảm thông hành động biểu hiện đó của ngài Duy Ma Cật. Ngài Văn Thù cho rằng hành động đó, tự nói lên phương cách chứng nhập pháp môn không hai của ngài Duy Ma Cật đầy đủ lắm rồi. Còn dùng ngôn ngữ văn tự để phủ nhận văn tự ngữ ngôn, ngài Đại Trí Văn Thù đã bỏ lỡ cơ may không về đến đích. Người hiểu được Duy Ma Cật phải là bậc Đại trí, chẳng những cần có Căn bản trí mà phải xử dụng Sai biệt trí để thấy biết tường tận mọi vật lý, sanh lý và tâm lý giữa cuộc đời.
Ở đời, người hay dạy dỗ, quở phạt, đánh mắng con cái là người cha mẹ quá thương con cái của mình. Không ai bỏ công dạy dỗ, quở phạt, đánh mắng những đứa trẻ nước lã người dưng. Vì sao? Vì người dưng nước lã không tương quan gắn bó, chẳng dính líu nghĩa tình. Đối với chúng, người làm cha mẹ kia chẳng có gì để nói.
Cũng vậy, các pháp thế gian và xuất thế gian đối với chúng, Bồ tát Duy Ma Cật không có gì để nói. Đó là thâm ý của sự lặng thinh, lặng thinh chỉ vì không có gì để nói. Chỉ vì đã biết rõ vạn pháp giai không từ hồi vô thỉ dĩ chí vô chung, cho nên nói ít thì sai chân lý ít, nói nhiều chỉ tăng thêm nhiều hý luận!









CHƯƠNG THỨ 10: PHẬT HƯƠNG TÍCH
1.- Ông Xá Lợi Phất nghĩ rằng: giờ ngọ trai sắp đến, rồi đây chư Bồ tát sẽ thọ thực bằng gì?
Trưởng giả Duy Ma Cật biết được thâm ý của ông Xá Lợi Phất, bèn bảo rằng:
Thưa ngài Xá Lợi Phất! Đức Phật dạy tám môn giải thoát ngài lãnh thụ thi hành. Há để xen tạp ý nghĩ về ăn trong lúc nghe pháp vậy sao? Nếu muốn ăn thì hãy đợi giây lát. Ngài sẽ được thức ăn chưa từng có.
Ông Duy Ma Cật liền nhập định, vận dụng sức thần thông khiến cho đại chúng thấy rõ, ở thượng phương thế giới trải qua bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật có quốc độ tên gọi là Chúng Hương.
Hiện tại đức Phật Hương tích là giáo chủ. Nước Chúng Hương có thứ hương thơm kỳ diệu, so với mùi thơm của các thế giới nhơn thiên. Các cõi nước chư Phật trong mười phương cũng không có thứ hương nào sánh được. Cõi nước đó, không có Thanh văn và Bích Chi Phật, chỉ có chúng đại Bồ tát thanh tịnh. Đức Phật Hương Tích thường truyền pháp giáo hóa cho hàng đại Bồ tát này. Thế giới Chúng Hương thường xử dụng toàn hương. Lầu các kiến tạo bằng hương. Đi kinh hành trên đất hương, vườn tược hoa cảnh cũng hương. Hơi hương là thức ăn của Phật, Bồ tát ở quốc độ này. Hương này lan tỏa ngát thơm khắp vô lượng thế giới mười phương.
Lúc ấy đức Phật và chư Bồ tát cùng ngồi thọ thực. Chư Thiên tử cùng có hiệu Hương Nghiêm, những Thiên tử này đều đã phát tâm vô thượng Bồ đề. Họ dâng thức ăn Hương để cúng dường Phật và Bồ tát.
Tất cả đại chúng trong hải hội đều trông thấy sự kiện này.
2.- Trưởng giả Duy Ma Cật hỏi các chúng Bồ tát trong hải hội rằng: Thưa chư nhơn giả! Trong này ai có thể qua đến cõi Phật Hương Tích để có thể thỉnh một ít cơm thơm?
Do thần lực của Bồ tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi, cả hải hội chư Bồ tát đều lặng im. Ông Duy Ma Cật nói: Cả đại chúng trong hải hội đều im lặng cả! Không đáng xấu
hổ lắm sao?
Văn Thù Sư Lợi nói: Theo lời Phật dạy “Không nên xem thường người chưa học”.
Ông Duy Ma Cật, ngồi tại bản tòa ở trước đại chúng, hóa hiện một Bồ Tát tướng hảo quang minh, uy đức hơn hẳn mọi người và sai bảo: Ông qua thượng phương vượt đây khoảng bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có một quốc độ tên gọi là Chúng Hương. Đức Phật cõi đó hiệu là Huơng Tích. Phật và Bồ tát đang cùng ngồi thọ thực. Ông hãy đến đó nói đúng như lời tôi rằng:
“Duy Ma Cật đê đầu đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn trọng kính vô vàn, gởi đến lời thăm hỏi đức Thế Tôn ít bệnh, ít não chăng? Sức khỏe bình an chăng? Mong Thế Tôn cho một ít cơm thừa đem về cõi Ta bà làm Phật sự khiến cho những người ham ưa pháp Tiểu thừa được mở mang trí tuệ phát chí Đại thừa, đi theo đại đạo và cũng khiến cho thanh danh của Như Lai được nhiều người nghe biết khắp cùng”.
Lãnh hội lời dăïn dò, ở trước đại chúng, vị hóa thân Bồ tát liền bay lên thượng phương, trước sự chứng kiến của đại chúng. Đến thế giới Chúng Hương, hóa thân Bồ tát lễ dưới chân Phật. Vào lúc này tất cả đại chúng ở cõi Ta bà đều nghe rõ lời tác bạch:
“Duy Ma Cật đê đầu đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, trọng kính vô vàn, gởi đến lời thăm hỏi, đức Thế Tôn ít bệnh, ít não chăng? Sức khỏe bình an chăng? Mong Thế Tôn cho một ít cơm thừa đem về cõi Ta bà làm Phật sự, khiến cho những người ham ưa pháp Tiểu thừa được mở mang trí tuệ phát chí Đại thừa , đi theo đại đạo và cũng khiến cho thanh danh của Như Lai được nhiều người nghe biết khắp cùng”.
Các đại sĩ ở nước Chúng Hương trông thấy đức hóa thân Bồ tát đều rất kính mộ và tán thán đây là việc chưa từng có. Bậc thượng nhân này từ đâu đến. Ta Bà thế giới cách đây bao xa. Sao gọi là những người ham ưa tiểu pháp. Bao nhiêu nghi vấn đăït ra và đem những việc đó thưa hỏi đức Phật.
Đức Hương Tích Phật nói với chư Bồ tát rằng ở hạ phương cách bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên Ta bà. Hiện nay đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ. Ta bà là cõi đời nhơ xấu năm trược hoành hành. Đức Phật Thích Ca vì những chúng sanh ham ưa pháp Tiểu thừa, mở mang chuyển hóa khiến cho họ phát chí Đại thừa. Đức Phật có một vị Bồ tát tên Duy Ma Cật hằng trụ trong cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì, vì các Bồ tát nói pháp. Vì thế, sai vị hóa thân Bồ tát đến cõi này, nhằm xưng dương danh hiệu của ta và khen ngợi quốc độ Chúng Hương này, khiến cho Bồ tát ở cõi Ta bà được tăng phần công đức.
3.- Các Bồ tát Chúng Hương hỏi Phật: Duy Ma Cật người thế nào, mà có thể hóa ra một Bồ tát oai đức tròn đầy, thần thông quảng đại thế kia?
Phật nói: Rất lớn! Chẳng những hóa một Bồ tát mà còn có thể hóa vô số Bồ tát đi
đến vô số cõi nước trong mười phương để thi tác Phật sự lợi ích chúng sanh.
4.- Đức Hương Tích Như Lai lấy bình bát Chúng Hương đựng đầy một bát cơm hương và ban cho hóa thân Bồ tát.
Lúc ấy có chín trăm vạn Bồ tát, đồng thanh nói: Chúng tôi muốn đến thế giới Ta bà để cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni và muốn hội kiến với ông Duy Ma Cật và chúng Bồ tát ở cõi Ta Bà.
Đức Phật nói : Các Bồ tát có thể đi, nhưng phải thu nhiếp hương thơm từ thân các ông. Đừng để cho các chúng sanh cõi kia sanh tâm đam mê nhiễm ái. Lại còn phải đổi thân hình vốn có của các Bồ tát cõi này, đừng để cho chư Bồ Tát cõi Ta bà có mặc cảm tự ti. Lại nữa, khi diện kiến các ông không nên có trong lòng ý tưởng khinh thường mà dấy lên tư tưởng trở ngại không nên. Bởi vì sao? Vì mười phương quốc độ đều như hư không. Chẳng qua, chư Phật vì giáo hóa những chúng sanh ham ưa tiểu pháp mà không hiện trọn vẹn cõi nước thanh tịnh đấy thôi.
Bấy giờ hóa thân Bồ tát cung kính tiếp nhận bát cơm cùng chín trăm vạn Bồ tát, nương sức oai thần Phật, chư Bồ tát hốt nhiên không còn hiện diện ở thế giới Chúng Hương… trong khoảnh khắc sau, tất cả cùng có mặt ở tịnh thất của ngài Duy Ma Cật.
Ông Duy Ma Cật hóa ra chín trăm vạn chiếc tòa sư tử cao rộng đẹp đẽ. Chư Bồ tát trong hải hội đều ngồi lên bảo tòa…
5.- Hóa thân Bồ tát đem bát cơm đầy ngào ngạt hương thơm dâng lên Bồ tát Duy Ma Cật. Hơi thơm của cơm xông ngát thành Tỳ Da Ly, lan tỏa khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới.
Các Bà la môn, cư sĩ v.v.. nghe mùi huơng thân tâm thanh thoát nhẹ nhàng và
đồng khen ngợi là sự kiện nhiệm mầu, xưa nay chưa từng có.
Có vị trưởng giả tên Nguyệt Cái cùng với đoàn tùy tùng 84.000 người đi đến tịnh thất Bồ tát Duy Ma Cật. Khi đến tịnh thất mọi người trông thấy số chúng đại Bồ tát rất đông. Các tòa sư tử cao rộng trang nghiêm lộng lẫy. Tất cả mọi người hoan hỉ lễ bái chư Bồ tát chúng và các hàng đệ tử Thanh Văn. Lễ xong, lui ra cùng đứng sang một phía. Các địa thần, hư không thần, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc nghe mùi hương cũng đến tịnh thất và xin được vào nghe pháp.
Bồ tát Duy Ma Cật nói với ông Xá Lợi Phất và các hàng đại Thanh văn rằng: Chư nhơn giả! Các vị sẽ được ăn cơm vị cam lồ của Như lai. Cơm này do huân tập vô lượng đại bi mà có. Khi ăn không nên dùng tâm ý hạn hẹp suy luờng mà làm cơm không tiêu hóa.
Khi ấy, có vị Thanh văn móng ý nghĩ rằng: Cơm ít mà đại chúng quá đông. Rồi
đây mọi người sẽ ăn, rồi ai ăn ai nhịn?
Nhằm giải tỏa mối nghi trong lòng đại chúng, hóa thân Bồ tát tuyên bố: Thưa chư nhơn giả! Các ngài không nên dùng tiểu đức tiểu trí của Thanh văn mà cân lường phước đức trí tuệ của Như lai. Nước bốn biển còn có thể hết chứ cơm này không thể hết. Giả sử mỗi người ăn một khối to bằng núi Tu Di, ăn trọn kiếp cũng không hết được. Vì đây là thức ăn thừa của đấng đầy đủ công đức giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến vô tận, làm sao hết được. Một bát cơm này no lòng cho bao nhiêu đại chúng trong hội này hãy còn quá dư thừa! Vả lại Bồ tát, Thanh văn, nhơn thiên ăn cơm này rồi thân tâm thư thái, vui vẻ an nhiên giống như Bồ tát ở cõi nước Nhất Thiết Lạc Trang Nghiêm. Lại nữa sau khi ăn cơm này, từng lỗ chân lông sẽ tiết ra hương thơm kỳ diệu giống như mùi hương của các rừng cây thơm ở quốc độ Chúng Hương.
6.- Bồ Tát Duy Ma Cật hỏi các Bồ tát Chúng Hương rằng: Thưa chư đại sĩ! Đức
Huơng Tích Như Lai ở nuóc Chúng Hương giáo hóa chúng Bồ tát bằng cách nào?
- Hương Tích Như lai cõi nước chúng tôi không dùng ngôn ngữ văn tự thuyết mà chỉ lấy Hương, khiến cho nhơn thiên được đi vào luật hạnh. Các Bồ tát thì ngồi dưới cội cây Hương nghe mùi hương vi diệu mà được Tam muội Nhất thiết Đức Tàng. Bồ tát được tam muội ấy rồi tự có đầy đủ công đức.
Các Bồ Tát Chúng Hương hỏi lại:
Thưa! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, thuyết pháp bằng cách nào?
Bồ tát Duy Ma Cật đáp: Cõi Ta bà chúng sanh cang cường khó giáo hóa, cho nên đức Phật của chúng tôi phải thuyết những ngôn ngữ cang cường để mà điều phục. Phải nói địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ. Phải nói đấy là chỗ khổn nạn, đấy là chỗ những người ngu si thọ sanh. Phải nói đó là việc làm sai quấy của thân. Đó là quả báo của việc làm sai quấy của thân. Đó là lời sai trái của khẩu, đó là quả báo của lời sai trái của khẩu. Đó là ý nghĩ tội lỗi của ý, đó là quả báo của ý nghĩ tội lỗi của ý. Đấy là sát sanh, đấy là quả báo của sát sanh. Đấy là không cho mà lấy, đấy là quả báo của việc không cho mà lấy. Đó là tà dâm, đó là quả báo của tà dâm. Đó là vọng ngữ, đó là quả báo của vọng ngữ. Đó là lưỡi hai chiều, đó là quả báo của lưỡi hai chiều. Đó là ác khẩu, đó là quả báo của ác khẩu. Đó là lời vô nghĩa, đó là quả báo của lời vô nghĩa. Đó là tham lam, đó là quả báo của tham lam. Đó là sầu não, đó là quả báo của sầu não. Đó là tà kiến, đó là quả báo của tà kiến. Đó là xan lẩn, đó là quả báo của xan lẩn. Đó là hủy phạm giới, đó là quả báo của hủy phạm giới. Đó là giải đải, đó là quả báo của giải đải. Đó là loạn ý, đó là quả báo của loạn ý. Đó là ngu si, đó là quả báo của ngu si. Đó là trì giới. Đó là phạm giới. Đó là việc nên làm. Đó là việc không nên làm. Đó là chướng ngại. Đó là không chướng ngại. Đó là đắc tội. Đó là tiêu tội. Đó là tịnh. Đó là cấu. Đó là hữu lậu. Đó là vô lậu. Đó là tà đạo. Đó là chánh đạo. Đó là hữu vi. Đó là vô vi. Đó là thế gian. Đó là Niết bàn.
Vì những người khó giáo hóa, tâm như vượn, ý như ngựa cho nên đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn phải dùng nhiều ngôn từ phương tiện thuyết pháp để chế ngự tâm họ. Sau đó mới điều phục được. Ví như ngựa bất kham, voi cuồng bạo khó huấn luyện, phải xử dụng roi, dùi, đánh, chích thì mới điều phục được. Cũng như thế, chúng sanh cang cường nan hóa, phải dùng những lời khổ thiết như thế mới có thể đưa khép họ vào luật hạnh.
7.- Các Bồ tát Chúng Hương đồng tán thán rằng: Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, làm việc khó làm, dấu đi sức tự tại vô lượng của mình mà vui lấy pháp khó khăn độ thoát chúng sanh. Các Bồ tát cõi Ta bà đây cũng hết sức nhọc nhằn khiêm tốn, do lòng đại bi vô lượng mới nguyện sanh ở cõi Phật này.
Bồ tát Duy Ma Cật nói: Đúng như chư đại sĩ nói, Bồ tát cõi Ta bà, đối với chúng sanh lòng đại bi rất kiên cố. Nhưng được cái ưu việt là làm lợi ích chúng sanh trong một đời công đức nhiều hơn trăm ngàn đời làm lợi ích chúng sanh ở cõi nước của các ngài. Vì sao? Vì thế giới Ta bà có muời việc thiện pháp, mà các cõi Tịnh độ khác không có:
a.- Lấy bố thí đem giúp đở kẻ nghèo.
b.- Lấy trì giới đem gương mẫu cho người phạm giới. c.- Lấy nhẫn nhục đem dạy khuyên người hung bạo.
d.- Lấy tinh tấn đem gương mẫu cho kẻ biếng lười. e.- Lấy thiền định đem dạy người loạn ý.
f.- Lấy trí tuệ đem giáo hóa người ngu si.
g.- Nói pháp trừ nạn hóa độ người bát nạn.
h.- Lấy pháp đại thừa đem hóa độ người yêu thích tiểu thừa. i.- Lấy pháp thiện căn khuyến hoá người vô đức.
j.- Thường lấy pháp tứ nhiếp dẫn dụ giáo hóa chúng sanh.
8.- Các Bồ tát Chúng Hương hỏi: Bồ tát ở thế giới Ta bà thực hành những pháp gì không bị thương tổn, không mắc mứu để có thể sanh sang ở tịnh độ.
Bồ tát Duy Ma Cật đáp: Bồ tát ở cõi này thành tựu được tám pháp thì không bị
thương tổn, không bị mắc mứu có thể sanh vào tịnh độ:
Một, làm lợi ích chúng sanh mà không cầu đền ơn đáp nghĩa. Hai, thay tất cả chúng sanh, gánh chịu những thiệt thòi khổ não. Ba, làm tất cả công đức lành, nguyện cho chúng sanh hưởng hết.
Bốn, bình dị đơn giản đối với tất cả mọi người, nhún nhường tột thấp mà không mặc cảm tự ti.
Năm, đối với chư Bồ tát xem trọng như Phật.
Sáu, những kinh chưa được nghe, thì nghe không nghi ngờ.
Bảy, không khinh chê pháp tu của người Thanh văn, không ganh tị sự thọ hưởng cúng dường của họ, không có ý thu lợi về phần mình. Thường tâm niệm việc đó để điều phục tâm ý.
Tám, thường xét lỗi mình, không phê cái xấu của người khác, hằng giữ nhất tâm, ham cầu công đức. Đó là tám pháp làm cho Bồ tát thế giới Ta bà không mắc mứu để có thể sanh sang tịnh độ.
Bồ tát Duy Ma Cật và Bồ tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi ở giữa đại chúng nói thời pháp ấy rồi, trăm ngàn trời, người phát tâm vô thượng Bồ đề. Mười ngàn Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn.
TRỰC CHỈ
1.- Kinh Duy Ma Cật ba lần hiện bày Tịnh độ trong Pháp giới nhất chân. Nói “nhất chân” người học Phật phải hiểu là pháp giới chỉ có một. Toàn thể chỉ có một. Một là tất cả. Không còn pháp nào khác ngoài ở ngoài pháp giới nhất chân đó. Pháp giới nhất chân là pháp giới “Thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương”. Về không gian, tột mé nghĩ bàn. Về thời gian hết nguồn khái niệm.
Trong pháp giới nhất chân không có vấn đề tịnh uế. Thấy tịnh thấy uế là do người. Vì vậy trong pháp giới không tịnh uế lại có ra tịnh uế.
Lần thứ nhất, ở chương một, trong cõi Ta bà uế độ này, đức Phật Thích Ca cho hàng đệ tử thấy và biết rằng: Cõi Ta bà cấu uế đó chính là do tội chướng của các ông, khiến cho cái thấy của các ông đối với cõi Ta bà không thanh tịnh. Ví như trước ánh nắng hòa dịu ấm áp của bầu trời xuân. với muôn vàn màu sắc của hoa lá thắm tươi rực rỡ. Vậy mà những người mù thì chẳng thưởng thức được gì. Không thấy đẹp, không phải vì không có cảnh đẹp. Không thấy tịnh, không phải quốc độ của Phật Thích Ca không tịnh.
Đó là lần Phật cho đại chúng trong hải hội biết: ngay nơi uế độ vốn đã có tịnh độ. Tịnh độ không cần phải xuất cảnh rời bỏ uế độ ra đi mới có.
Ở chương này, giới thiệu quốc độ Chúng Hương của Phật Hương Tích.
Phật Hương Tích giáo chủ của thế giới Chúng Hương ở thượng phương cách cõi
Ta bà 42 hằng ha sa cõi nước. Ở đó có thế giới Tịnh độ. Tịnh độ Chúng Hương, Phật và
Bồ Tát xử dụng toàn hương. Đất đai, lầu các, vườn rừng, hoa cảnh, cho đến thức ăn đều là hương tất cả. Đức Hương Tích giáo hóa cũng xử dụng hương.
Qua ý nghĩa của sự kiện trên, ta thấy:
a.- Nhằm giới thiệu cho đại chúng trong hải hội biết rằng: ngoài thế giới uế độ còn có thế giới thuần tịnh độ trong pháp giới nhất chân. Tuy nhiên, vẫn không ngoài chân lý tịnh uế do người. Thế giới Chúng Hương thuần tịnh, vì thế giới không có xen tạp cái nhìn của nhục nhãn vốn nhiều tội cấu của phàm phu. Thế giới đó được nhìn qua tuệ nhãn của thuần là Bồ tát.
b.- Nhằm giáo dục cho người đệ tử Phật biết: Lục trần, trần nào cũng có thể làm Phật sự. Lục căn, căn nào cũng cũng có thể khiến cho con người học đạo, hành đạo và chứng đạo được hết.
Đức Phật Thích Ca giáo chủ cõi Ta bà xử dụng thanh trần giáo hóa chúng sanh làm nên Phật sư.
Đức Phật Hương Tích giáo chủ thế giới Chúng Hương xử dụng Hương trần giáo hóa Bồ tát làm nên Phật sự.
Chúng sanh cõi Ta bà xử dụng nhĩ căn nghe đạo, học đạo, hành đạo và chứng thành đạo quả.
Chúng Bồ tát thế giới Chúng Hương xử dụng tỷ căn ngửi mùi đạo, học đạo, hành
đạo và chứng thành đạo quả.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, 25 Thánh đệ tử dựa trên lục căn, lục trần, lục thức, thất
đại làm dữ kiện chứng đắc viên thông.
Kinh Duy Ma Cật, 31 Bồ tát dựa trên 31 sự kiện khác nhau nhưng kết cuộc cùng đến một đích: chứng nhập pháp môn bất nhị và với Hương trần, đức Phật Hương Tích lại giáo hóa chúng sanh khiến cho hàng Bồ tát đạo hạnh ngày càng tăng tiến.
Quán triệt kinh đìển Đại thừa, người đệ tử Phật càng thấy nền giáo lý Phật thậm thâm vi diệu.
Với chân lý: Chư pháp tương tức, nhất đa tương dung. Thế giới này cũng là thế giới kia. Thế giới kia cùng thế giới này tuy hai mà một. Đó là ý nghĩa chư pháp tương tức. Bởi vì, dù thế giới có hai nhưng hai thế giới vẫn chung cùng trong pháp giới nhất chân.
Hoa Nghiêm tông lấy con sư tử vàng làm ví dụ để khái niệm nhận thức về ý nghĩa chư pháp tương tức và nhất đa tương dung. Mảy lông bờm và mảy lông đuôi của con sư tử tên gọi khác nhau, nhưng lông bờm là lông đuôi, lông đuôi là lông bờm của con sư tử ấy. Vì hai mảy lông cùng một chất vàng. Chất vàng của lông bờm dung chứa toàn bộ chất vàng của lông đuôi. Chẳng những thế, nó còn dung chứ toàn bộ chất vàng của toàn bộ lông móng từ đầu chí đuôi của toàn thân con sư tử.
Qua ví dụ đó, thiền giả nhận thức về ý nghĩa nhất đa tương dung.
2.-Hành xử quán trí thâm ngộ sâu sắc ý nghĩa chư pháp tương tức, nhất đa tương dung, thiền giả sẽ lý giải không hoang đường. Về sự di chuyển qua lại của đức hóa thân Bồ tát, trên một khoảng không gian cách 42 hằng hà sa thế giới. Vừa đi, đếùn, vừa làm lễ tác bạch, xin cơm Hương, vừa trở về tịnh thất của ngài Duy Ma Cật mà chỉ mất trong vài khoảnh khắc!
Nhìn vạn pháp bằng tuệ nhãn, Huyền Giác thiền sư nói; “Giác hậu không không vô đại thiên”. Nghĩa là tâm thấy biết của những bậc Đại giác thì 42 hằng hà sa thế giới chẳng có ranh giới, cho nên xa gần không còn là vấn đề đặt ra để bình luận nữa. Mà: “Nhất tức nhất thiết. Nhất thiết tức nhất”.
3.- Đức Phật Hương Tích dạy: là Bồ tát thì uy đức tôn nghiêm, thần thông quảng đại là lẽ thường. Các đặc trưng và thực nghĩa của Bồ tát là phải làm những việc khó mà tất cả chúng sanh không làm được. Chẳng những thế, vì sự nghiệp hóa độ chúng sanh, Bồ tát phục vụ chúng sanh từ quốc độ này sang vô lượng thế giới khác trong mười phương không kể thời gian, năm, tháng…
4.- Phật Hương Tích đồng ý cho chín trăm vạn Bồ tát ở quốc độ Chúng Hương đi tham quan cõi Ta bà ra mắt đức Phật Thích Ca với ba điều kiện:
Một, phải thu nhiếp thân hương. Không nên để chúng sanh cõi Ta bà sanh tâm ái nhiễm khiến cho họ khó tu hành.
Hai, thu thân tướng vĩ đại trang nghiêm. Không được để Bồ tát cõi Ta bà mặc cảm tự ti không tốt.
Ba, thấy Phật, thấy Bồ tát, thấy quốc độ Ta bà không thanh tịnh trang nghiêm, nhưng không được khởi tướng xem thường. Đức Phật dạy tiếp:
Bồ tát các ông phải biết: “Mười phương quốc độ đều như hư không. Chư Phật vì giáo hóa chúng sanh ham ưa pháp nhỏ mà không hiện trọn vẹn cõi nước thanh tịnh đấy thôi”.
Qua lời dạy của đức Phật Hương Tích, một lần nữa, ta có thể xác định rằng: quốc độ tịnh uế là do chúng sanh, chứ không phải quốc độ của chư Như Lai trong mười phương có tịnh có uế.
5.- Cơm Hương, tượng trưng “phước đức trí tuệ hương”. Của cải vật chất hữu vi, dù nhiều đến bao nhiêu, đem phân phát cho ra có ngày phải hết. Phước đức trí tuệ của bậc đầy đủ tột cùng, đem truyền đạt bao thời gian năm ,tháng, số người tiếp thu không cần hạn chế, phước đức trí tuệ vẫn không hao mòn giảm thiểu. Tu học theo con đường phước đức trí tuệ của Hương Tích Như lai tức là tu học pháp môn vô tận đăng của thế giới Chúng Hương truyền đạt cho Bồ tát cõi Ta bà.
6.- Như ta đã biết căn, trần, thức, thất đại đều có thể làm Phật sự được hết. Vì tất cả đều là dữ kiện chứng đắc Viên thông (Xin đọc thêm kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực chỉ đề cương cùng một biên dịch giả).
tát.
Đức Phật Hương Tích thế giới Chúng Hương xủ dụng Hương trần giáo hóa Bồ
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cõi Ta bà xử dụng Thanh trần giáo hóa chúng sanh.
Cõi tịnh độ, Phật Hương Tích giáo hóa chư Bồ tát chỉ dùng Hương mà luật hạnh của các ngài bất thối chuyển trên đường vô thượng Bồ đề.
Cõi uế độ, Phật Thích Ca giáo hóa chúng sanh phải tận dụng ngôn từ khổ thiết nặng nề, vì chúng sanh thâm nhiễm vô minh, ý chí cang cường nan điều nan phục.
Đối với bậc lợi căn thượng trí thức, đức Phật chỉ nói với họ về phước đức, trí tuệ, khinh an, giải thoát, Bồ đề Niết bàn là người trí đã phát tâm hâm mộ…
Với bậc hạ trí độn căn, Phật không muốn dùng lời khổ thiết nặng nề: ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục…nhưng vì muốn tránh cảnh khổ đó cho chúng sanh, đức Phật bất đắc dĩ phải đem ra xử dụng.
Thật ra, đó chỉ là một phương tiện được xem như những công cụ bạo lực để răn đe những ai không biết sợ tội lỗi là gì. Như giăng giúp cho họ một sợi thép gai làm hàng rào, hy vọng họ không sa ngã vào chỗ hầm hố, gai chông.
Vấn đề địa ngục trong giáo lý nhà Phật, địa ngục có cũng do con người. Không do đấng thiêng liêng nào kiến tạo sẵn để trừng trị một ai. (Đọc thêm Thủ Lăng Nghiêm Trực chỉ đề cương, tập 3 sẽ được hiểu rõ hơn).
7.- Phật và Bồ tát ở cõi Ta bà, lòng đại bi vô lượng, đức kiên cố vô cùng, ẩn dấu đi sức tự tại giải thoát của mình làm những việc khó làm nhằm độ thoát chúng sanh cang cường nan điều nan phục.
Hương.
Đó là lời tán thán và kính phục tận đáy lòng của chư Bồ tát quốc độ Chúng
Bồ tát Duy Ma Cật cho biết dù vậy, nhưng Bồ tát ở cõi Ta bà trên phương diện vun bồi công đức phát huy trí huệ, rèn luyện ý chí lại có nhiều thuận lợi mà các Bồ tát ở các cõi Tịnh độ khác không có. Chẳng hạn:
Muốn giúp đở ban cho , có người tiếp nhận.
Hoàn cảnh nhiều cám dỗ để tự tôi luyện ý chí được kiên trì. Nhiều kẻ thù bất như ý, để thí nghiệm tánh nhẫn nhục,
Nhiều nghịch cảnh đau thương, như cảnh tỉnh phải tinh tấn tu hành, không nên giải đải.
Nhiều chúng sanh tạp ý, ta dạy cho họ phương pháp định tâm. Nhiều kẻ ngu si, Bồ tát dạy cho họ sống theo trí tuệ.
Nhờ vậy, Bồ tát hành đạo ở cõi Ta bà một đời bằng trăm ngàn đời hành đạo ở các cõi Tịnh độ khác.
8.- Tuy nhiên, nếu Bồ tát không muốn hành Phật sự, giáo hóa chúng sanh ở cõi Ta bà thì cũng vẫn có những điều kiện để Bồ Tát tiến thân sanh sang các Tịnh độ:
Một, thi ân không cần đền trả.
Hai, nếu có điều kiện, gánh vác thay cực khổ cho chúng sanh. Ba, làm điều lợi lành ban tặng cho chúng sanh hết.
Bốn, bình dân giản dị trong cuộc sống. Nhún nhường tột thấp mà không tự ti. Năm, trọng kính Bồ tát như kính Phật.
Sáu, kinh điển Đại thừa nghe không khiếp sợ.
Bảy, không khinh chê pháp Thanh văn, không tỵ hiềm quyền lợi đối với họ. Tám, thường quán xét lỗi mình không nói thị phi của người.
Độ sanh, hành đạo Bồ tát, tùy ở thệ nguyện và phát tâm. Không ai có quyền ép uổng ai trong nhiệm vụ cao cả thiêng liêng đó. Thấy đủ khả năng, giàu nghị lực thì hành đạo ở cõi Ta bà. Muốn được nhẹ vơi gánh nặng thì cũng tùy nguyện mà sanh sang thế giới khác.
Tuy nhiên ở cõi này hay nguyện sang thế giới khác, muốn lập công bồi đức thành tựu vô thượng Bồ đề đều phải có điều kiện. Thành tựu tám điều kiện đó, thì ngay thân này, quốc độ này mà tâm hồn đã giải thoát rỗng rang, chính lúc đó là đã sanh sang cõi Tịnh độ khác rồi.








CHƯƠNG THỨ 11: VIỆC LÀM CỦA BỒ TÁT
1.- Đức Phật đang thuyết pháp ở trong một vườn xoài cây to hàng rợp bóng. Lúc bấy giờ đất vườn bỗng nhiên trở nên rộng rãi bao la khác thường, cành lá vườn cây đổi màu mơn mởn xanh tươi, trăm hoa đua nở rực rở sắc màu, lã lướt đong đưa trong làn gió nhẹ. Cảnh vật tựa như hân hoan chào đón…Tất cả đại chúng trong hải hội tự nhiên đều trở thành màu hoàng kim rạng rỡ hào quang.
Thấy hiện tượng lạ, ông A Nan thưa với Phật: Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cảnh vật trong vườn hiện ra điềm lạ thế kia. Đất của vườn xoài bỗng nhiên rộng rãi bao la, cây cối xanh tươi, trăm hoa rực rõ sắc màu, mọi vật có vẻ như hân hoan khác lạ. Đại chúng trong hải hội đều trở thành một màu hoàng kim rực rỡ.
Đức Phật bảo A Nan! Hiện giờ ông Duy Ma Cật và Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng đang phát khởi ý muốn đến ra mắt Ta. Họ đang cung kính đi nhiểu quanh, trước khi đến đây cho nên ứng ra điềm ấy.
2.- Ông Duy Ma Cật nói với Đại Trí Văn Thù Sư Lợi rằng: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Chúng ta nên đến ra mắt đức Thế Tôn! Nhơn cơ hội này để chư Bồ tát tham kiến và lễ bái cúng dường đức Phật.
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi nói: Ý kiến rất hay. Thật là đúng lúc. Vậy chúng ta nên cùng đi.
Bồ Tát Duy Ma Cật bèn vận dụng thần lực, dời tất cả đại chúng trong lúc mọi người vẫn ngồi trên tòa sư tử, để lên bàn tay phải của mình sang đến chỗ Phật. Đến nơi để xuống dưới đất. Bồ tát Duy Ma Cật đê đầu, lễ dưới chân Phật. Đi hữu nhiểu bảy vòng, chấp tay cung kính đứng qua một phía. Các Bồ tát, hàng đệ tử Thanh văn, trời Đế Thích, Phạm Thiên, tất cả rời khỏi tòa ngồi, dập đầu lễ dưới chân đức Phật cùng đi hữu nhiểu bảy vòng và đứng sang một phía.
Đức Thế Tôn tỏ lời thăm hỏi trong đạo tình thân thiết đối với toàn thể đại chúng và mọi người hãy an tọa trở lại bản tòa.
Đức Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng:
- Xá Lợi Phất! Ông đã thấy sức thần thông tự tại của bậc đại sĩ Bồ tát làm rồi chứ?
- Dạ! Bạch Thế Tôn, con đã thấy. Ông Xá Lợi Phất thưa.
- Ý ông thế nào? Phật hỏi.
- Bạch Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất thưa. Con thấy việc làm của Bồ tát khó có thể
nghĩ bàn. Vượt ngoài sự suy lường của tâm, sự nghĩ ngợi của ý.
3.- Ông A Nan đứng lên hỏi Phật:
Bạch Thế Tôn! Hôm nay trong bầu không khí của hải hội có mùi hương kỳ diệu mà từ trước chưa từng có, chúng con không biết đó là thứ hương chi!
Phật bảo: Đó là mùi hương phát ra từ lỗ chân lông của các Bồ tát vừa mới đến.
Ông Xá Lợi Phất nói với ông A Nan: Từng lỗ chân lông của tôi cũng phát ra mùi hương ấy.
- A Nan hỏi: Do đâu ngài có được mùi hương ấy?
- Do Bồ tát Duy Ma Cật xin được cơm dư của Phật Hương Tích ở nước Chúng Hương đem về tịnh thất của ông. Những ai được ăn cơm ấy, từng lỗ chân lông đều phát ra mùi hương như thế.
- Mùi hương ấy có thể giữ lại trong người bao lâu mới hết?
- Cho đến khi nào cơm tiêu thì mùi hương mới hết.
- Cơm ấy bao lâu mới tiêu?
- Thế lực của cơm này sau bảy ngày mới tiêu. Thưa ngài A Nan! Nếu người Thanh văn chưa chứng nhập chánh vị, ăn cơm này đến khi được nhập chánh vị, cơm mới tiêu. Nếu đã nhập chánh vị, ăn cơm này đến khi tâm được giải thoát, cơm mới tiêu. Nếu chưa phát ý đại thừa, ăn cơm này đến khi phát ý, cơm mới tiêu. Đã phát ý đại thừa, ăn cơm này đến khi được vô sanh pháp nhẫn, cơm mới tiêu. Đã được vô sanh pháp nhẫn, ăn cơm này đến khi được nhất sanh bổ xứ, cơm mới tiêu. Ví như có thứ thuốc tên là thượng vị, người uống thuốc này, các chất độc trong thân hết, vị của thuốc mới tiêu. Cơm này cũng thế. Chừng nào dứt trừ hết các độc phiền não, nhiên hậu cơm mới tiêu.
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có. Cơm này có thể làm nên
Phật sự.
4.- Phật nói: Đúng vậy! Đúng vậy! A Nan: có cõi Phật lấy ánh hào quang Phật làm Phật sự hoăïc có cõi lấy Bồ tát làm Phật sự. Cõi lấy hóa nhơn Phật làm Phật sự. Cõi lấy cây Bồ đề làm Phật sự. Cõi lấy y phục ngọa cụ của Phật làm Phật sự. Cõi lấy cơm ăn làm Phật sự. Cõi lấy vườn rừng, đài quán làm Phật sự. Cõi lấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của thân Phật làm Phật sự. Cõi lấy thân Phật làm Phật sự. Cõi lấy hư không làm Phật sự.
Cõi lấy chiêm bao, huyễn ảo, âm vang, hình trong gương, trăng trong nước, bóng giả mả, các thí dụ như thế làm Phật sự. Cõi lấy âm thanh, ngữ ngôn văn tự làm Phật sự. Cõi lấy quốc độ thanh tịnh bằng bặc vô ngôn, vô thuyết, vô thị, vô thức, vô tác, vô vi mà làm Phật sự.
Như thế đấy A Nan! Nhất nhất oai nghi, đi đứng tới lui, động tịnh của chư Phật không một cử chỉ nào không làm nên Phật sự.
Đức Phật dạy tiếp: Này A Nan! Có cõi Phật dùng cả tứ ma, dùng cả 84.000 phiền não trần lao. Đối với những thứ đó, chúng sanh cho là những thứ phiền lụy, khổ đau, mỏi mệt. Thế mà chư Phật lại lấy đó mà làm nên Phật sự. Làm được những việc như thế, gọi đó là thể nhập Nhất thiết chư Phật pháp môn. Bồ tát thể nhập pháp môn đó, giả sử thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh đẹp đẽ cũng không lấy làm mừng, không khởi ý tham cầu, không móng tâm cao ngạo. Giả sử thấy cõi Phật không thanh tịnh, cũng không bị ám ảnh ưu tư, không ngại ngùng khởi tâm trốn tránh. Lúc nào cũng vững tâm thanh tịnh đối với chư Phật, hoan hỉ cung kính như được cái chưa từng có. Vì biết rằng chư Phật Như Lai công đức bình đẳng, chỉ vì giáo hóa chúng sanh mà hiện cõi Phật không giống nhau.
5.- A Nan! Đất đai cõi nước của chư Phật có giới hạn mà hư không thì không có giới hạn. Cũng vậy, nhìn thấy sắc thân của chư Phật có giới hạn mà trí tuệ vô ngại của chư Phật thì không có giới hạn.
A Nan! Sắc thân của chư Phật oai nghi, tướng hảo, chủng tánh giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng pháp, đại từ, đại bi, oai nghi sở hành, thọ mạng, thuyết pháp giáo hóa, thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ v.v…Các phương tiện để thành tựu Phật pháp trọn vẹn thì đều bình đẳng giống nhau. Vì thế cho nên gọi là Chánh giác, gọi là Chánh biến tri giác, gọi là Vô thượng Chánh biến tri giác.
A Nan! Nếu Như Lai nói rộng về ba cú nghĩa đó, ông dù đem tuổi thọ của một kiếp cũng không thể nào tiếp thu hết được. Giả sử chúng sanh đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới, có khiếu đa văn đệ nhất như A Nan được chánh niệm có sức tổng trì, những người đó dùng trọn kiếp thọ mạng cũng không lãnh hội được hết. Như thế đó A Nan! Vô thượng chánh biến tri giác của chư Phật không có hạn lượng. Trí tuệ biện tài không thể nghĩ bàn.
6.- A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, con không còn dám nghĩ mình đa văn nữa.
Phật bảo: A Nan! Ông đừng suy thoái ý chí như thế. Từ trước Như Lai vẫn nói ông là đa văn đêï nhất đó chứ. Nhưng đêï nhất trong hàng Thanh văn chứ không phải đệ nhất với hàng Bồ tát. Ông hãy an tâm đi! Là người có trí, không ai so lường trí tuệ của các hàng Bồ tát! Tất cả vực sâu, biển cả còn có thể đo lường chứ thiền định, trí tuệ biện tài, sức tổng trì và công đức của chư Bồ tát thì không thể lường hết.
A Nan! Ông hãy gác qua những việc làm của Bồ tát, đừng nghĩ ngợi so bì nữa! Sức thần thông biến hiện của ông Duy Ma Cật chừng một giời thôi, tất cả Thanh văn, Bích chi Phật dùng hết sức biến hóa trải trăm ngàn kiếp cũng không làm sao bằng
được.
Phật:
7.- Các Bồ tát từ thế giới Chúng Hương đến dự, lúc bấy giờ chấp tay bạch với đức
Bạch Thế Tôn! Chúng con khi mới đến cõi này, thoạt đầu chúng con có ý tưởng hơi xem thường. Giờ đây, chúng con rất ăn năn tự trách và ý nghĩ đó không còn. Vì chúng con được hiểu rằng phương tiện của chư Phật không thể nghĩ bàn. Vì độ chúng sanh tùy phước đức và căn cơ của họ mà ứng hiện cõi nước Phật có khác.
Dạ! Kính bạch Thế Tôn! Chúng con mong mỏi Thế Tôn cho chúng con xin một lời dạy để khi trở về bổn độ, chúng con được nhớ Như Lai mãi mãi.
8.- Phật dạy: này các Bồ tát! Như Lai có pháp môn Hữu tận vô tận giải thoát, các ông nên học.
Hữu tận tức là hữu vi pháp. Vô tận tức là vô vi pháp. Phàm là Bồ tát, phải tu học Bất tận hữu vi, Bất trụ vô vi.
Bất tận hữu vi, nghĩa là Bồ tát không rời tâm đại từ, không gián đoạn lòng đại bi. Phát tâm cầu nhất thiết trí sâu sắc không tâm xao lãng. Giáo hóa chúng sanh không nài mỏi mệt. Đối với pháp Tứ nhiếp thường nhớ nghĩ làm theo. Hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng, trồng các căn lành không biết mỏi mệt. Tâm thường an trú trong các phương tiện, ý chí hồi hướng vô thượng Bồ đề. Cầu pháp không giải đải. Thuyết pháp không lẫn tiếc. Siêng cúng dường chư Phật, cho nên vào sanh tử mà không sợ. Được vinh quang không vui mừng kiêu hãnh. Bị khổ nhục không buồn bả nãn lòng. Không khinh người chưa học. Kính người học như kính Phật. Ai sa vào phiền não khiến cho họ phát khởi chánh niệm. Viễn ly được dục lạc không lấy đó làm tự hào. Mình được vui không luyến ái đam mê. Người được vui khởi tâm vui mừng tùy hỷ. Tâm trụ thiền định mà khởi tưởng như ở địa ngục. Ở trong sanh tử khởi tưởng như đang dạo chốn hoa viên. Có người đến cầu xin khởi tưởng như vị thầy tốt. Xả bỏ hết sở hữu khởi tưởng thành tựu nhất thiết trí. Thấy người hủy phạm điều răn khởi tưởng cứu hộ. Các ba la mật khởi tưởng như cha mẹ. Những pháp trợ đạo phẩm khởi tưởng như quyến thuộc. Trồng các căn lành không hạn chế. Dùng những việc trang nghiêm tịnh Phật quốc độ xây dựng Phật độ cho mình. Thực hành bố thí ba la mật để được đầy đủ tướng hảo. Trừ bỏ tất cả hành vi ác để thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Dù sanh tử vô số ức kiếp ý chí vẫn tích cực lạc quan. Nghe Phật có vô lượng công đức, không có ý mỏi mệt thoái thoát tự khinh. Dùng gươm trí tuệ đánh dẹp giặc phiền não. Ra khỏi ấm giới nhập gánh vác chúng sanh. Hằng ở trong giải thoát, dùng sức đại tinh tấn hàng phục ma quân. Thường trụ trong vọng niệm mong được trí tuệ thực tướng. Thực hành thiểu dục tri túc mà không rời bỏ pháp thế gian. Không sai trái oai nghi mà có thể tùy thuận việc làm thế tục. Vận dụng thần thông, kích khởi trí tuệ dẫn dắt chúng sanh. Trụ trong chánh niệm được sức tổng trì, nghe học chân lý, thường không quên sót. Khéo phân biệt căn tánh, cắt đứt mọi nghi ngờ của chúng sanh trong những điều nghi vấn. Lạc thuyết biện tài, nói pháp không mâu thuẩn trước sau. Hành thập thiện trong sáng, hưởng thụ phước báu nhơn thiên. Tu tứ vô lượng tâm mở đường giác ngộ cho Đế thích, Phạm thiên. Khuyến khích thuyết pháp, tùy hỷ mọi việc lành. Được âm thinh thánh thiện, thân khẩu ý đều lành. Đưọc oai nghi Phật tu sâu thiện pháp. Việc lành tập trung, chuyển hướng phục vụ giáo hóa đại thừa. Thành tựu Bồ tát tăng tâm không phóng dật, không rơi sót tất cả hạnh lành.
Thực hành tốt những điều như thế, gọi là Bồ tát bất tận hữu vi.
9.- Bồ tát bất trụ vô vi là Bồ tát tu học vạn pháp giai không mà không lấy cái không làm mục tiêu đối tượng chứng đắc. Tu học vạn pháp vô tướng vô tác mà không lấy vô tướng vô tác làm đối tượng sở chứng sở đắc. Tu học vạn pháp vô khởi mà không lấy vô khởi làm đối tượng chứng đắc. Bồ tát quán vô thường mà làm tất cả việc lành không hề có chán ngán. Quán thế gian khổ mà không oán ghét sanh tử. Quán vô ngã mà hết sức tinh tấn trong việc giáo hóa con người. Quán bản thể của vạn pháp tịch diệt mà không mong cầu vĩnh viễn diệt như hư không. Quán viễn ly mà thân tâm luôn luôn trụ trong thiện pháp. Quán vạn pháp không có chỗ về mà quy về thiện pháp. Quán vạn pháp vô sanh mà lấy pháp sanh để gánh vác tất cả. Quán cảnh giới vô lậu mà không dứt hẳn các lậu. Quán vạn pháp vô hành mà lấy pháp hành giáo hóa chúng sanh. Quán rỗng không không có gì mà không rời bỏ đại bi. Quán chánh pháp vị mà không theo đường lối của Tiểu thừa. Quán vạn pháp hư vọng không bền chắc, không người, không chủ, không tướng nhưng bổn nguyện chưa tròn thì đối với phước đức, thiền định, trí tuệ lại là việc bất hư.
Tu học những pháp như thế gọi là Bồ tát bất trụ vô vi. Vì sự nghiệp phước đức đầy đủ, Bồ tát không trụ vô vi.
Vì sự nghiệp trí tuệ đầy đủ, Bồ tát không rời bỏ hữu vi. Vì đại từ bi không trụ vô vi. Vì trao truyền thuốc pháp không rời bỏ hữu vi. Vì biết bịnh chúng sanh không trụ vô vi. Vì trừ diệt bịnh chúng sanh không rời bỏ hữu vi.
Này các chánh sĩ! Đức Phật dạy tiếp: Bồ tát thực hiện những pháp bất tận hữu vi, bất trụ vô vi rồi, thì chính đó cũng gọi là Tận vô tận giải thoát pháp môn. Các vị hãy theo đó mà tu học.
Các Bồ tát đại sĩ nước Chúng Hương nghe đức Phật dạy pháp môn ấy rồi đều rất hoan hỉ, lấy các thứ hoa sắc màu rực rỡ, bao nhiêu thứ hương thơm thượng diệu tung rải khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới để cúng dường Phật, cúng dường Pháp và cúng dường chư Bồ tát Tăng.
Cúng dường xong, tất cả cùng dập đầu lễ dưới chân Phật tán thán rằng: chỉ có đức Phật Thích Ca Mâu Ni vận dụng phương tiện hành những việc nan hành, trong cõi thế gian chưa từng có.
Hương.
Nói xong, bỗng nhiên không còn hiện diện. Các đại sĩ đã trở lại quốc độ Chúng
TRỰC CHỈ
1.- Trong các kinh điển Đại thừa, Đất thường được đem ví dụ cho Tâm chúng sanh. Vì vậy, kinh điển khi nói đến tâm hay dùng qua cái từ Tâm địa.
…”Chúng sanh chi tâm du như đại địa. Ngũ cốc ngũ quả tùng đại địa sanh. Như thị, tâm pháp sanh Thế xuất thế, ngũ thú thiện ác. Hữu học, vô học. Độc giác, Bồ tát cập ư Như Lai. Dỉ thị nhân duyên, tam giới duy tâm. Tâm danh vi địa”. Có nghĩa là tâm chúng sanh được ví như đất, vì tâm có thể sanh ra pháp thiện, pháp ác. Có thể tạo ra trời, người, A tu la, quỷ, súc sanh, địa ngục. Có thể tạo ra hữu học, vô học, Độc giác, Bồ tát thậm chí làm nên địa vị Như Lai. Do vậy, ví tâm qua cái từ tâm địa.
Đất đai, vườn rừng biểu hiện một sắc thái hoàng kim rực rỡ. Cỏ cây, hoa cảnh đua nhau khoe sắc thi màu. Khí hậu trong lành, hòa điệu, rộn rã tiếng chim hót oanh ca.
Trong bối cảnh đất chùa tươi đẹp đó, đức Phật dạy cho ông A Nan và đại chúng biết:”Đây là hiện tượng ông Duy Ma Cật và các Bồ tát định ý và đang chuẩn bị đến ra mắt vấn an ta”.
Sự thật là thế đó. Vùng đất nào mà Bồ tát đã đến, đang đến hay sẽ đến đều có hiện tượng đẹp như vậy. Còn hơn thế nữa, kinh Pháp Hoa đức Phật cho biết: từ thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm, cách thế giới Ta bà 42 hằng hà sa thế giới. Vậy mà trên khoảng đường dài ấy, thế giới nào Bồ tát Diệu Âm đi ngang qua – chỉ đi ngang qua thôi, tất cả đều trở thành rực rỡ trang nghiêm như vậy. (Đọc thêm kinh Pháp Hoa thâm nghĩa đề cương cùng một biên soạn giả).
Ý Phật muốn dạy cho chúng sanh rằng: Tâm địa của ai vừa nghĩ lành, làm lành, nói lành như hạnh lành của Bồ tát. Hoặc đã làm, đang làm hay ssẽ làm. Tự khắc tâm địa của người đó, chuyển thành hiện tượng đẹp vui, thanh thoát như bối cảnh hoàng kim của vườn rừng tươi đẹp ấy.
2.- Bồ tát Duy Ma Cật di chuyển mấy muôn ngàn Bồ tát vẫn ngồi yên trên tòa sư
tử, từ vị trí tịnh thất của ông sang địa điểm chỗ Phật, trên một bàn tay…
Sao lại có chuyện hoang đường như thế?
Tại trong người vốn có chất hoang đường khi nghe hiểu theo kiểu hoang đường, cho nên biến ra tưởng tượng.
Thâm ý của bài kinh, giáo lý Phật đại thừa nhằm dạy cho Thiền giảø vận dụng quán trí, tư duy về vạn pháp qua mấy khía cạnh sau đây:
a.- Phải hiểu rõ chân lý: Chư pháp tương tức tự tại môn.
b.- Phải tư duy sâu sắc chân lý: Nhất đa tương dung bất đồng môn.
c. Phải nhận thức vạn pháp với dạng: Nhân đà la võng cảnh giới môn. d.- Nắm vững chân lý: Đồng thời cụ túc tương ứng môn.
Đoạn kinh trên nhằm dạy cho hành giả phương pháp nhận thức, tư duy và quán chiếu vạn pháp.
Phải đứng trên lập trường quan điểm đó, người đệ tử Phật có ngày tỏ ngộ chân lý. Sự tu hành sẽ có kết quả thiết thực đem lại sự khinh an giải thoát từng phần trong cuộc sống hiện đời.
Bằng ngược lại, “Y văn giải nghĩa tam thế Phật oan”. Dù có khéo nói vạn ngữ thiên ngôn, thực chất chỉ là người giàu óc hoang đường, nghe chuyện hoang đường và sống để nói chuyện hoang đường.
3.- Ở cõi Ta bà đức Phật Thích Ca Mâu Ni xử dụng Thanh trần làm Phật sự ïtrong việc giáo hóa chúng sanh. Những chúng sanh hữu duyên được nghe chánh pháp, hành chánh pháp và truyền bá chánh pháp thì quyết định sự giải thoát giác ngộ từng bước mà tiến theo tiến trình tu học của mình. Và Phật chủng đó tồn tại mãi mãi trên tiến trình ấy và cứ nhân lên mãi cho đến ngày thành tựu quả vô thượng Bồ đề.
Khác đức Phật Thích Ca, đức Phật Hương tích xử dụng Hương trần làm Phật sư trong việc hóa độ chúng Bồ tát. Thì những chúng sanh nào hữu duyên được thọ dụng Hương trần và kết quả đem lại cũng giống nhau. Nghĩa là sự giải thoát giác ngộ cũng từng bước mà tiến theo tiến trình tu học của mình và Phật chủng đó tồn tại mãi cho đến ngày thành tựu quả vô thượng Bồ đề.
Thanh trần hay hương trần chỉ là phương tiện của chư Phật mà thôi.
4.- Hơn thế nữa, căn, trần, thức, giới, đại đều là dữ kiện thành tựu vô thượng Bồ đề. Thậm chí có cõi Phậ dùng tứ ma làm Phật sự. Có cõi dùng 84.000 phiền não trần lao cũng làm Phật sự. Làm được những việc như thế gọi là người thể nhập Nhất thiết chư
Phật pháp môn.
5.- Phật quả có thể gọi qua ba danh hiệu: Chánh giác, chánh biến tri giác, vô thượng chánh biến tri giác. Ba cú nghĩa đó, không thể dùng ngôn từ diễn đạt hết công đức, trí tuệ và biện tài của một đấng Như Lai Thế Tôn vô thượng.
Sự mãn ý của con người tròn đầy hạnh phúc thế gian còn không tả nổi, hưống hồ
sự giải thoát giác ngộ vô thượng của một đấng Như Lai.
Người nói vận dụng ngôn từ ngày này sang ngày khác, tháng này qua năm nọ cũng không diễn tả hết, thì người nghe dù có đa văn đến cở nào, cũng không sao nghe được trọn nghĩa của vấn đề.
“Như nhơn ẩm thủy, lãnh noản tự tri” là vậy.
6.- Ông A Nan đã có cơ hội đánh giá nhận xét và so sánh trí tuệ của Thanh văn và Bồ tát điều đó rất quí. Binh thư của Tôn Tẩn có câu: “Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách thắng”. Trong lãnh vực trí tuệ cũng như vậy. Phải tri kỷ tri bỉ, khư khư ôm cái tánh tự cao, tự mãn, tự đắc, tự hào sẽ mất đi cái lợi lớn. Giống như cục đá xanh, hòn sắt sét dơ dù có bỏ vào chảo đường nấu trăm năm cũng không thể thành chè được, vì nó chẳng thấm được tí đường nào.
Tuy nhiên, ông A Nan thoái chuyển tự ti thì lại bị Phật quở trách. Phật nói: Từ lâu Như Lai vẫn khen ông là đa văn đấy chứ! Có phải do ông tự mãn tự thị gì đâu. Nhưng trí đa văn của ông chỉ sánh với các hàng A la hán. Với trí tuệ và đa văn của Bồ tát thì không nên so sánh để rồi buồn nản thoái thoát đạo tâm là việc không nên.
7.- Các Bồ tát khi mới đặt chân đến cõi Ta bà, thoạt đầu có ý niệm xem thường, điều đó Như Lai không hề trách. Vì các ông ấy là Bồ tát, trình độ nhận thức của họ chỉ thông qua cái nhìn của tuệ nhãn thì làm sao bảo họ thấy biết được cõi nước thanh tịnh của chư Phật trong mười phương.
Chẳng những không trách mà còn khen. Vì sau đó, chư Bồ tát Chúng Hương ăn năn về sự thấy biết thiển cận của mình. Còn biết ra rằng: cõi Ta bà của Thích Ca Như Lai không thật sự nhơ xấu như chúng sanh lầm tưởng. Cõi Ta ba nhơ xấu là do chúng sanh. Đức Thích Ca Như Lai bằng lòng làm giáo chủ cõi nhơ xấu và ở ngay nơi cõi nhơ xấu củng chỉ vì chúng sanh. Phát hiện ra nhận thức đó, lòng kính trọng của chư Bồ tát Chúng Hương đối với đức Phật Thích Ca tăng thêm vạn bội.
8.- Trước khi chúng con “về” xin Như Lai dạy cho chúng con “một thiểu pháp” (tức là một ít pháp nho nhỏ của Như Lai. Chứ bọn chúng con làm sao nhớ nhiều nổi, nếu Như Lai dạy nhiều và dạy pháp quá cao siêu sâu sắc), để về bên ấy chúng con được nhớ mãi hình bóng và âm thanh vô vàn trí tuệ của Như Lai.
Chấp thuận lời thỉnh cầu, đức Phật dạy chư Bồ tát Chúng Hương pháp môn Hữu tận Vô tận giải thoát.
Ý Phật dạy rằng: Là một Bồ tát thì phải thực hiện pháp môn đó suốt tiến trình tu tập của mình.
Hữu tận, có nghĩa là Bồ tát không được từ bỏ pháp hữu vi. Dù biết các pháp hữu vi như mộng, như huyển, như bào, như ảnh…
Vô tận, có nghĩa là Bồ tát không được bám trụ pháp vô vi. Dù pháp vô vi đó là phước đức, là trí tuệ, là Niết bàn, là Bồ đề.
Pháp hữu vi dù như mộng, huyễn, bào, ảnh nhưng Bồ tát không được tránh né, trốn chạy, từ bỏ mà phải tích cực hoạt động vì lý tưởng độ thoát chúng sanh. Bồ tát phát huy công dụng của tâm đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả để lợi ích chúng sanh.
- Giáo hóa chúng sanh không mỏi mệt.
- Thực hiện pháp tứ nhiếp vào cuộc đòi.
- Hộ trì chánh pháp, truyền bá chánh pháp không tiếc thân.
- Trồng các căn lành không mỏi mệt.
- Phát huy phương tiện hồi hướng vô thượng Bồ đề.
- Cầu pháp không giải đải.
- Thuyết pháp không dấu diếm lẫn tiếc.
- Siêng cúng dường Phật.
- Được vinh quang không hảnh diện.
- Bị trù dập không nản lòng.
- Không khinh người chưa học.
- Kính người học như kính Phật.
- Ai bị phiền não dạy cho họ vượt qua, khiến họ quay về chánh tín.
- Xa lìa dục lạc, không lấy đó mà tự hào.
- Được thuận lòng vừa ý, không luyến ái đam mê.
- Người khác được vui khởi tâm tùy hỷ.
- Tâm thường ở trong thiền định mà tưởng như mình đang ở địa ngục, nghĩa là chưa được thỏa mãn với thiền định đã có.
- Ở trong cõi đời sanh tử mà tưởng như đang du ngoạn thượng uyển, hoa viên.
- Người đến cầu xin cứu hộ, tưởng họ như là vị ân sư.
- Lục ba la mật khởi tưởng như cha mẹ.
- Những pháp trợ đạo khởi tưởng như quyến thuộc.
- Trừ bỏ các ý niệm, hành vi ác để thân, khẩu, ý được thanh tịnh.
- Dù sanh tử vô số ức kiếp, ý chí vẫn lạc quan.
- Nghe Phật có vô lượng công đức, không thối chí tự khinh mình.
- Xử dụng trí tuệ để hóa giải phiền não vô minh.
- Dùng sức đại tinh tấn, hàng phục phiền não ma quân.
- Thường trú trong vô niệm để đi vào thật tướng.
- Sống thiểu dục tri túc mà không rời bỏ pháp thế gian.
- Lạc thuyết vô ngại biện tài, thuyết pháp không mâu thuẩn trước sau… Thực hành những điều như thế, gọi là Bồ tát Bất tận hữu vi.
9.- Pháp vô vi được xem là đích đến của người tu hành Phật đạo. Tuy nhiên, dù đến mà không được dùng tâm bám trụ, khởi ý đam mê. Nếu bám trụ đam mê thì pháp vô vi lại trở thành điều kiêïn buộc ràng. Người giải thoát bấy giờ tự đánh mất tánh chất giải thoát của mình. Bởi vì cố bám trụ, cố giữ lấy là do sợ mất. Cái người ta sợ mất vì cái đó có thể mất. Có thể mất thì có ngày sẽ mất. Cho nên bám trụ đam mê cái của nợ như thế thì tự nó trở thành nguyên nhân đau khổ, tự nó không còn vô vi pháp nữa. Vì vậy, là một Bồ tát trong quá trình cũng như trên tiến trình tu tập phải học pháp Bất trụ vô vi.
- Biết rõ vạn pháp giai không mà không lấy cái không ấy làm đối tượng sở chứng của mình.
gian.
- Biết rõ vạn pháp vô tướng, vô tác mà không buông xuôi rời bỏ mọi pháp thế
- Biết rõ vạn pháp vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh mà không từ bỏ việc lành nào, dù là lành nhỏ.
- Biết rõ thế gian khổ, mà không oán ghét sanh tử.
- Biết rõ tất cả đều vô ngã mà hết lòng hết sức giáo hóa chúng sanh.
- Biết rõ thể tánh của các pháp là tịch diệt mà không mong cầu vĩnh viễn diệt.
- Quán biết rõ vạn pháp vô sanh mà lấy pháp sanh gánh vác tất cả.
- Thường quán cảnh giới vô lậu mà không dứt hết các lậu.
- Hướng tâm về chánh pháp vị mà không làm theo hạnh nguyện Tiểu thừa.
- Quán biết vạn pháp hư vọng, vô chủ nhưng bổn nguyện chưa thành thì việc tu phước, tu huệ…không phút giây xao lãng.
Là Bồ tát muốn phước đức viên mãn không nên trụ chấp. Muốn trí tuệ viên mãn, Bồ tát không rời bỏ hữu vi
Để dễ nhớ nội dung tu tập của Tận vô tận giải thoát pháp môn, chúng ta học lấy câu này:
“Thật tế lý địa bất thọ nhất trần
Sanh diệt môn trung bất xả nhất pháp”.









CHƯƠNG THỨ 12: THẤY VÔ ĐỘNG NHƯ LAI VÀ THẾ GIỚI DIỆU HỈ
1.- Đức Thế Tôn hỏi ông Duy Ma Cật rằng: muốn thấy một Như Lai ông phải quán sát như thế nào để được thấy?
Ông Duy Ma Cật đáp: Bạch Thế Tôn! Muốn thấy Như Lai con vận dụng pháp quán chiếu y như quán thật tướng của chính mình. Con quán Như Lai thời gian trước không có đến. Thời gian sau không có đi. Thời hiện tại không trụ. Quán Như Lai con không dựa trên sắc cũng không dựa trên thể chơn như của sắc, không dựa trên tánh của sắc, thọ, tưởng, hành cũng vậy. Cho đến không dựa trên thức mà quán cũng không dựa trên thể chơn như của thức, không dựa trên tánh của thức.
Vì Như Lai không do tứ đại khởi sanh. Như Lai giống như hư không, nhưng không phải hư không. Như Lai không tương quan với lục nhập và vượt ngoài nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Như lai không ở trong tam giới, xa lìa ba cấu, thuận theo tam giải thoát môn. Như Lai đầy đủ tam minh, bình đẳng với vô minh. Như Lai không phải tướng một, không phải tướng khác, không phải tướng tự. Không phải tướng tha. Không phải tướng hữu. Như Lai không phải bờ bên này, không phải bờ bên kia cũng không phải giữa dòng mà vẫn thành tựu nhiệm vụ giáo hóa chúng sanh. Quán Như Lai tịch diệt mà không vĩnh viễn vắng lặng. Như Lai không kia, không đây, không lấy kia, không lấy đây. Như Lai không thể dùng trí mà nhận biết, không thể dùng thức mà phân biệt. Như Lai không phải là tối mà cũng không phải là sáng. Như Lai không tên, không tướng, không mạnh, không yếu, không tịnh, không uế. Như Lai không ở trong phương hướng, mà cũng không rời phương hướng; không phải hữu vi cũng không phải vô vi; không thể chỉ bày, không thể diễn nói. Như Lai không phải bố thí cũng không phải xan lẫn; không phải trì giới, không phải phạm giới; không phải nhẫn nhục, không phải sân nộ; không phải tinh tấn, không phải giải đải; không phải định tâm, không phải loạn ý; không phải trí tuệ mà không phải ngu si. Như Lai không thật mà không dối, không đến cũng không đi; không ra cũng không vào. Tất cả ngữ ngôn không thể diễn đạt thấu đáo cú nghĩa Như Lai.
Như Lai, không phải phước điền, không phải không phước điền. Không phải bậc nên cúng dường, không phải không cúng dường; không phải lấy, không phải bỏ; không phải tướng có cũng không phải tướng không.
Quán Như Lai hòa đồng chơn lý, bình đẳng như pháp tánh, không thể cân, không thể lường, vượt quá cân lường. Như Lai không lớn mà cũng không phải nhỏ. Như Lai không thể dùng cái thấy để thấy; không thể dùng cái nghe để nghe; không thể dùng tri giác để khái niệm, không thể dùng tri thức để nhận biết. Như Lai rời ngoài các ràng buộc, đồng với các trí, bình đẳng như chúng sanh. Đối với các pháp không có sự phân biệt. Như
Lai đối với tất cả không lỗi, không trược cấu, không não phiền. Như Lai không có tác giả, không có mới khởi đầu, không sanh không diệt, không có sợ không có lo, không mừng không nản, không phải đã có, không phải sẽ có, không phải đang có. Không thể dùng lời lẽ diễn đạt hay chỉ bày.
Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật thưa: Thân Như Lai là thế đấy. Quán Như Lai phải quán như thế đấy. Do quán như thế mà con thực thấy Như Lai. Và người nào quán Như Lai như thế, gọi là quán đúng, nếu quán khác là quán sai, không thể thấy Như Lai đích thực.
2.- Ông Xá Lợi Phất hỏi ông Duy Ma Cật: Thưa ngài Duy Ma Cật! ngài mất ở cõi nào mà lại sanh đến thế giới Ta bà này?
Ông Duy Ma Cật hỏi lại:
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Pháp thân ngài chứng đắc có mất và có lai sanh chăng?
- Pháp mà tôi chứng đắc không có lúc nào mất và cũng chẳng có lúc nào lai sanh. Ông Xá Lợi Phất đáp.
- Nếu các pháp không có tướng mất và tướng lai sanh. Vậy cớ sao Ngài hỏi tôi rằng: “Ngài mất từ cõi nào, lai sanh đến thế giới này?” Xá Lợi Phất, ngài nghĩ thế nào? Ví như huyễn thuật sư làm ra người nam hay nữ, vậy những con người đó có mất có lai sanh không?
- Không có mất và không có sanh.
chăng?
- Xá Lợi Phất! Ngài há chẳng nghe Phật dạy: các pháp, tướng của nó như huyễn
- Đúng vậy. Tôi có nghe.
- Nếu tất cả pháp, tướng như huyễn, thì tại sao ngài hỏi tôi mất ở thế giới nào, lai sanh đến cõi này?
Này Xá Lợi Phất! mất là cái tướng tan rã của pháp hư dối, sanh là cái tướng tương tục của các pháp hư dối. Bồ tát dù mất mà không dứt hết gốc lành, dù sanh mà không cho sanh trưởng giống ác.
3.- Đức Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng: Có cõi nước tên Diệu Hỉ, đức Phật hiệu
Vô Động là giáo chủ. Ông Duy Ma Cật từ cõi nước đó mất mà lai sanh đến cõi này.
Ông Xá Lợi Phất nói: Thật là việc chưa từng có.Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật lại có thể bỏ quốc độ thanh tịnh, đến cõi Ta bà để vui nhận ở nơi cảnh giới có nhiều sân nộ và ác hại này!
Ông Duy Ma Cật bảo: Xá Lợi Phất! Ngài nghĩ thế nào? Lúc mặt trời soi sáng, có cùng bóng tối hợp nhau chăng?
- Không. Khi mặt trời soi sáng thì không còn tối dược nữa.
- Đúng vậy, thưa ngài Xá Lợi Phất! hể ánh sáng soi thì bóng tối diệt. Bồ tát dù sanh ở cõi Phật không thanh tịnh là vì mục đích giáo hóa chúng sanh nhưng không thể hợp chung với những gì tối tăm ngu độn. Ngược lại, Bồ tát dạy cho chúng sanh diệt hết phiền não của họ mà thôi.
4.- Đại chúng khát ngưởng muốn thấy thế giới Diệu Hỉ và đức Vô Động Như Lai cùng chư Bồ tát, Thanh văn cõi ấy.
Đức Phật biết ý niệm của đại chúng bèn gọi ông Duy Ma Cật bảo:
- Thiện nam tử! Đại chúng trong hải hội này muốn thấy đức Vô Động Như Lai và cõi nước Diệu Hỉ cùng chư Bồ tát, Thanh văn ở thế giới kia. Ông hãy giúp cho hải hội hiện tiền đều được thấy.
Ông Duy Ma Cật nghĩ bụng rằng: Ta sẽ không rời khỏi chỗ này, tiếp nhập thế giới Diệu Hỉ đem về đây. Ta sẽ dời tất cả Thiết vi sơn, Tu di sơn và tất cả núi lớn, núi nhỏ, biển cả, sông ngòi, nguồn lạch, suối khe, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú. Tiếp nhập thiên cung, long cung, quỷ thần, Phạm thiên cung v.v… Tiếp nhập các chúng Bồ tát, Thanh văn cả thành ấp, tụ lạc, nam nữ lớn nhỏ. Tiếp thỉnh đức Vô Động Như Lai, cây Bồ đề và các diệu liên hoa và những người có thể làm Phật sự trong mười phương. Tiếp nhập ba đường hành lang báu thông đồng từ cõi Diêm phù đề thẳng lên cõi trời Đao Lợi. Trên hành lang báu này chư Thiên tấp nập lên xuống kính lễ đức Vô Động Như Lai, nghe học lãnh thọ kinh pháp. Người cõi Diêm phù đề cũng rộn rịp trên hành lang tiến bước hướng về cõi trời Đao Lợi và mọi người đều thấy rõ ràng chư Thiên ở thế giới Diệu Hỉ, họ hoàn thành những việc công đức lớn lao vô lượng như thế. Ta sẽ tiếp thụ trên từ cõi sắc cứu cánh dưới tột mé thủy luân, để lên tay mặt của ta y như người thợ gốm ngắt bớt một mẫu đất thừa. Dời tất cả những cảnh giới gần xa, đem về xáp nhập thế giới này như cầm một tràng hoa đẹp trên tay, giới thiệu chỉ bày cho toàn thể đại chúng trong hải hội.
Ông Duy Ma Cật nghĩ như thế rồi liền nhập tam muội, hiện sức thần thông. Dùng tay mặt cắt lấy thế giới Diệu Hỉ đem về xáp nhập vào cõi Ta bà. Những hàng Bồ tát, Thanh văn, chư Thiên có chứng đắc thần thông, đồng thanh kêu lên lời cầu cứu: “Thế Tôn! Ai lấy chúng con đem đi. Mong Phật cứ hộ”.
Đức Vô Động Như Lai nói: Việc đó không phải ta làm. Do thần lực của ông Duy
Ma Cật, ông ấy đang làm chuyện đó, để phục vụ khai ngộ và giáo hóa chúng sanh.
xảy ra.
Những người chưa được thần thông thì không hề hay biết về sự việc như thế đã
Thế giới Diệu Hỉ dù được đem xáp nhập cõi Ta bà, mà thế giới Ta bà không bị giãn rộng ra, thế giới Diệu Hỉ không vì vậy mà tóp hẹp. Vị trí của mọi vật vẫn y nhiên, không thay đổi một mảy may nào.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo toàn thể đại chúng trong hải hội:
Toàn thể đại chúng trong hải hội đã được thấy thế giới Diệu Hỉ và thấy đức Vô Động Như Lai rồi chứ? Các vị đã thấy sự trang nghiêm đẹp đẽ huy hoàng tráng lệ của thế giới Diệu Hỉ chứ? Các vị thấy Bồ tát và Thanh văn chúng cõi kia tịnh hạnh và thanh bạch chứ?
Toàn thể đại chúng đồng thanh bạch Phật: Dạ! chúng con đều đã thấy.
Đức Phật dạy: Nếu Bồ tát muốn được cõi Phật thanh tịnh như vậy, cần phải học theo con đường hành đạo của đức Vô Động Như Lai.
Trong lúc thế giới Diệu Hỉ hiện hữu, cõi Ta bà có mười bốn ức người phát tâm vô thượng Bồ đề, muốn sanh sang thế giới Diệu Hỉ của đức Vô Động Như Lai.
5.- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cộng đồng thọ ký: “Tất cả các vị muốn sanh sang cõi nước kia đều sẽ được như nguyện”.
Trong những giờ phút thế giới Diệu Hỉ hiện hữu ở cõi Ta bà, tác động vào tâm lý, kích khởi thiện căn của chúng sanh hữu duyên đem lại nhiều lợi lạc. Sự kiện ấy trôi qua. Tất cả đại chúng đều thấy cảnh giới Ta bà bỗng nhiên trở về trạng thái cũ.
6.- Đức Phật bảo: Xá Lợi Phất! Ông đã thấy thế giới Diệu Hỉ và đức Vô Động
Như Lai rồi chứ?
Ông Xá Lợi Phất thưa: Dạ! Con đã thấy. Bạch Thế Tôn! Con mong muốn cho tất cả chúng sanh được cõi nước thanh tịnh trang nghiêm như cõi nước của đức Vô Động Như Lai và có sức thần thông như ông Duy Ma Cật vậy. Con cũng mong cho mọi người có đủ duyên lành thân cận cúng dường để được nhiều lợi lạc. Con nghĩ rằng: những chúng sanh hiện tại hoặc sau Phật diệt độ được nghe kinh nầy sễ được lợi ích khó nghĩ bàn. Nghe rồi tin hiểu, giảng thuyết đúng như pháp tu hành, người đó được xem như trong tay đã cầm giữ được kho tàng pháp bảo của Như Lai. Người như thế là cúng dường
PHÁP SƯ TỪ THÔNG
pháp. Mà cúng dường pháp tức là cúng dường Phật. Người biên chép diễn giải kinh này, phải biết chỗ thất của họ ở có Phật. Ai nghe kinh nầy mà khởi tâm tùy hỷ, không lâu sẽ thành tựu nhất thiết trí. Nghe kinh nầy tin hiểu chừng một bài kệ bốn câu, vì người khác truyền đạt ý kinh, phải biết đó là người đã được Như Lai thọ ký thành tựu quả vô thượng Chánh biến tri giác rồi!
TRỰC CHỈ
Quán.
1.- Đáp câu hỏi của đúc Phật, ông Duy Ma Cật nói: Muốn thấy Như Lai phải
Quán tức là quán chiếu. Nghĩa là phải dùng trí mà soi rọi vào nội tâm. Biến tánh thấy trở thành cái thấy bằng trí, không xử dụng cái thấy của mắt. Phải xử dụng quán trí mới có cơ hội thấy Như Lai thật. Thấy Như Lai thật nghĩa là phải hiểu rõ về Như Lai pháp thân mới là người thật thấy Như Lai.
Vì vậy, muốn thấy Như Lai phải Quán. Quán giống như quán thật tướng của tự
bản thân.
Nên biết, mọi người ai cũng có thật tướng cũng như Phật, Phật nào cũng có pháp thân. Con người là hiện tượng tùy duyên của thật tướng. Thật tướng là bản thể bất biến của con người. Phật cũng vậy.
Phật là một ứng thân. Ứng thân Phật là Phật tùy duyên độ sanh của pháp thân
Phật. Pháp thân Phật là bản thể bất biến của Phật ứng thân.
Cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên ở giai đoạn con người chưa giác ngộ giải thoát gọi là thật tướng của tự thân. Cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên sau khi con người giác ngộ giải thoát, gọi là Pháp thân.
Vì vậy:
Vì vậy, thấy được thật tướng của tự thân đồng nghĩa thấy Như Lai pháp thân Phật.
- Như Lai không phải sắc, không phải thọ, tưởng, hành, thức, không phải tứ đại, không phải hư không, không phải lục nhập vượt ngoài nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý.
- Như Lai đầy đủ tam minh bình đẳng với vô minh.
- Như Lai hòa đồng chân lý, bình đẳng với pháp tánh.
- Như Lai, vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, Như lai thọ lượng vô thỉ vô chung… Quán Như Lai như vậy là người thật thấy Như Lai.
2.- Chết sống, mất còn, sanh diệt là cái tướng đối tượng thấy của nhục nhãn, dựa trên hiện tượng vạn pháp hữu vi.
Xử dụng tuệ nhãn, Bồ tát thấy tột bản thể thì sự sanh diệt, sống chết, mất còn không còn là vấn đề đáng nêu ra để vấn đáp. Càng hỏi kỹ, chứng tỏ trình độ tu học, trình độ nhận thức chân lý càng non nớt nhiều.
Trả lời càng chi tiết, biểu hiệu lòng từ thương hại của Bồ tát bao la vô hạn.
Với tuệ nhãn của Bồ tát, Chết chỉ là cái tướng tan rã của các pháp hữu vi hư
huyễn. Sanh chỉ là cái tướng tương tục của các pháp hư huyễn hữu vi.
Chẳng có gì quan trọng đối với người trí trong việc sống chết, sanh diệt, mất còn.
…”Cự hải hà phòng nhất điểm âu”.
Cũng như sự chứng đắc. Thực ra có chứng đắc gì đâu! Sông Hương, núi Ngự cảnh nên thơ
Chưa đến lòng ai vẫn ước mơ
Một đến lại về như chẳng đến
Sông Hương, núi Ngự cảnh nên thơ…
3.- Ông Xá Lợi Phất đề cập đến vấn đề sanh diệt, lập tức bị ngài Duy Ma Cật nạn vấn nhằm vô hiệu quá vấn đề. Vì câu hỏi đó không xứng đáng là câu hỏi của người trí học đạo nên hỏi.
Vấn đề được khai thị xong thì đức Phật ôn tồn cho biết: Ông Duy Ma Cật từ thế
giới Diệu Hỉ mất và sanh qua thế giới Ta bà này.
Tại sao thế? Tại vì:
Thật tướng lý địa, người học phải đạt đến chỗ Bất thọ nhất trần.
Khi đứng bên lề tương đối thì cần nhớ: Sanh diệt môn trung bất xả nhất pháp.
Bởi vì, không có lý do gì một đại sĩ trí tuệ biện tài dường ấy lại là người vô gia cư bất trụ xứ hay sao! Mà đó lại cũng là sự thật. Bồ tát tùy nguyện trợ hóa cho đức Phật Thích Ca nhằm tạo điều kiện triển khai Đại thừa chánh pháp.
4.- Không rời khỏi tòa ngồi, Bồ tát Duy Ma Cật tiếp nhận toàn vẹn thế giới Diệu Hỉ, gom hết thảy biển cả, sông ngòi. núi non, thành ấp, tụ lạc…Tiếp thỉnh đức Vô Động Như Lai và tất cả Bồ tát, Thanh văn để lên bàn tay như cầm một tràng hoa đem về xáp nhập cõi Ta bà.
nữa.
Đây cũng là cơ hội, người bất tư nghì trình diễn cảnh bất tư nghì thêm một lần
Như lời tựa đã giới thiệu, kinh Duy Ma Cật có ba lần hiện Tịnh độ trong ba dạng khác nhau.
Lần một, ở chương thứ nhất đức Phật Thích Ca hiện tịnh độ ngay nơi cõi Ta bà nhằm dạy cho mọi người biết rằng tịnh độ không ngoài uế độ. Tịnh, uế do con ngưòi: Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh. Tâm con người có tịnh mới có cõi Phật tịnh. Tâm không tịnh, không tìm có cõi tịnh được.
Lần hai, chương thứ mười, Bồ tát Duy Ma Cật xử dụng khả năng bất tư nghì, biểu thị việc làm bất tư nghì trình diễn cảnh giới bất tư nghì nhằm giới thiệu cõi tịnh độ ở từ cách xa cõi Ta bà những 42 ức hằng hà sa thế giới.
Điều đó nhằm dạy cho mọi người biết rằng tịnh độ không phải chỉ có ở cõi Ta bà. Mà ở xa mút nguồn tưởng tượng ấy, còn có nhiều tịnh độ khác nửa…
Tuy nhiên, xa mà không có gì trở nfgại bởi sự cách núi ngăn sông. Cho nên con người có thể dời tịnh độ xa xôi ấy đem về thành gần và con đường qua lại chỉ trong thời gian khoảnh khắc.
Bồ tát Duy Ma Cật làm việc đó nhằm dạy cho đại chúng trong hải hội cái chân lý:
- Chư pháp tương tức tự tại môn.
- Nhất đa tương dung bất đồng môn.
- Chư tàng thuần tạp cụ đức môn.
- Nhân đà là võng cảnh giới môn.
- Bí mật ẩn hiện câu thành môn.
- Duy tâm hồi chuyển hiện thành môn.
Là tu sĩ phải học như thế, phải hiểu như thế và xử dụng Quán trí để nhận thức chân lý.
Lần thứ ba, hiện tịnh độ ở chương này cũng nhằm nhắc nhở sâu đậm về chân lý:
Vạn pháp trong pháp giới nhất chân không có ngoại lệ. Vạn pháp tương ưng, tương tức, tương nhập. tương dung. lý vô ngại, sự vô ngại, lý sự vô ngại và sự sự vô ngại.
Thiền giả xủ dụng quán trí, nhận thức rõ được chân lý sự sự vô ngại thì việc Bồ tát Duy Ma Cật tiếp nhận toàn bộ thế giới Diệu Hỉ đem xáp nhập cõi Ta bà không trở ngại gì nhau. Vấn đề đó không còn là vấn đề thần thoại khó hiểu nữa. Bấy giờ người trí bừng tỉnh ngộ: thì ra kinh Duy Ma Cật lưu lại hậu thế không nhằm mục đích ghi lại chuyện hoang đường để sau này các nhà sư thay Phật kể chuyện hoang đường cho các cháu trẻ con nghe!
Sau khi thấy rõ toàn vẹn thế giới Diệu Hỉ và chiêm ngưỡng tôn nhan đức Vô Động Như Lai, đại đa số trong hải hội phát nguyện muốn sanh sang thế giới tịnh độ Diệu Hỉ của Vô Động Như Lai. Đức Thích Ca cộng đồng thọ ký tất cả các vị đều sẽ được như nguyện.
Vì sao đức Phật lại thọ ký quá dễ dàng? Ngài cảm tình, ngài thương xót mà nỗ lực phù hộ cho ư?
Không! Phật không phù hộ, gia trì, cứu rỗi cho ai được hết. Sở dĩ Như Lai thọ ký dễ dàng là vì Như Lai biết rõ mọi người ai cũng sẵn có chơn tâm thưòng trú. Ai cũng có thể tánh tịnh minh. Ai cũng vốn có Như Lai viên giác diệu tâm. Ai cũng sẵn có Tri kiến Phật. Ai cũng sẵn có Phật tánh rồi. Cho nên nếu mọi người muốn sang Diệu Hỉ tịnh độ kia, thì các vị chỉ cần thực hiện lời Như Lai đã dạy: Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh. Dục tịnh Phật độ tiện tịnh kỳ tâm. Khi nào tâm của các vị thanh tịnh thì các vị có cõi Phật thanh tịnh. Muốn được cõi Phật thanh tịnh trước hết các vị tự sửa đổi tịnh cái tâm của mình.
Thế thì, công của ai làm thì người đó hưởng. Cũng giống như ai muốn hưởng vật chất dồi dào ở một nước kinh tế phồn vinh thì phải tự lo đăng ký, tự tích lũy tiền bạc, tự chạy giấy tờ xuất cảnh để mà đi. Hể có đi thì có đến. Giống như tâm các vị có tịnh thì có cõi tịnh vậy. Như Lai có mất gì mà chẳng thọ ký để cho tròn nghĩa là đấngĐại Từ Bi vô thượng.
6.- Ông Xá Lợi Phất sau khi nghe thấy những sự kiện bất tư nghì, thâm ngộ chân lý…Ông tán thán kinh nghĩa thậm thâm. Ông cho rằng người nào được nghe, được học, được hiểu và áp dụng phương pháp quán chiếu mà tu hành thì sẽ được công đức vô lượng. Người đó là người cúng dường pháp. Mà cúng dường pháp cũng tức là cúng dường Phật một cách tròn đầy nhất, người đó đã được Như lai thọ ký thành tựu vô thượng Chánh biến tri giác rồi.
Lời ông Xá Lợi Phất trần tình trước Phật là một chân lý tất nhiên. Không phải xuất phát từ đầu môi khách sáo.








CHƯƠNG THỨ 13: CÚNG DƯỜNG PHÁP
1.- Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn, trước đại chúng đứng lên bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Con dù theo Phật và Văn Thù Sư Lợi từ lâu, đã nghe trăm ngàn kinh điển, nhưng chưa từng nghe kinh điển “Quyết định thực tướng, bất khả tư nghì tự tại thần thông” như vậy.
Theo sự hiểu biết của con, qua ý nghĩa và mục đích của Phật dạy: Nếu chúng con nghe theo kinh pháp này tin hiểu, thọ trì đọc tụng, tu hành đúng như kinh dạy, thì người đó đã đóng bít cửa ác thú, khai thông đại lộ Niết bàn. Người này thường được chư Phật hộ niệm, hàng phục được ngoại đạo, đánh đuổi được ma quân, tăng trưởng quả Bồ đề, vững ngồi nơi đạo tràng, bước theo dấu chân Phật mà đi.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người thọ trì đọc tụng đúng theo lời kinh mà tu hành, con cùng các quyến thuộc, sẽ cúng dường mọi sự và ở xóm làng thành thị, núi rừng chỗ nào có kinh này, quyến thuộc chư Thiên chúng con đến đó nghe pháp và tu học, chúng con bằng mọi phương tiện khiến cho những ai chưa tin, phát khởi lòng tin. Người đã tin sẽ giữ gìn hộ pháp.
Phật dạy: Tốt lắm! Thiên Đế! Như Lai rất bằng lòng thiện ý của ông. Kinh này nói rõ về những sự kiện bất khả tư nghì vô thượng Chánh biến tri giác của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Thế cho nên, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì đọc tụng giảng thuyết cúng dường kinh, tức là cúng dường chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.
Thiên đế! Giả sử ba ngàn đại thiên thế giới chư Phật ở trong đó nhiều như số tre nứa, lau sậy, lúa bắp, cây cỏ lùm rừng. Nếu có người thiện nam, thiện nữ đem trọn đời mình tôn trọng cung kính tán thán, cúng dường đầy đủ mọi thứ cần dùng. Cúng dường cho đến khi chư Phật diệt độ. Rồi lấy xá lợi của toàn thân Phật xây tháp thất bảo rộng bốn lần quả địa cầu, cao tột cõi Phạm Thiên, dùng tất cả hương hoa, anh lạc, tràng phan, kỷ nhạc hay đẹp nhất đời, hiến trọn kiếp sống để cúng dường phục vụ chư Phật đông nhiều như thế.
chăng?
Thiên đế! Ông nghỉ thế nào? Người vun trồng cội phúc như thế phúc đức có nhiều
Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Phước đức đó dù đem trọn kiếp, nói cũng không sao hết được. Thiên Đế Thích đáp.
Phật bảo: Thiên đế! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe kinh điển bất khả tư nghì giải thoát này, tin hiểu, thọ trì đọc tụng, tu hành thì phước đức còn nhiều hơn người cúng dường vật chất cho chư Phật kia. Bởi vì Bồ đề của chư Phật đều từ kinh này sanh ra mà tướng Bồ đề thì vô hạn lượng. Thế cho nên phước đức cũng vô hạn lượng.
2.- Phật dạy tiếp: Thiên đế! Thuở quá khứ cách nay vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, có đức Phật hiêïu Dược Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc. Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự Trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn. Thế giới của đức Phật đó tên Đại Trang Nghiêm, kiếp tên Trang Nghiêm. Phật thọ mạng hai mươi tiểu kiếp. Chúng đệ tử Thanh văn ba mươi sáu ức na do tha. Bồ tát tăng có mười hai ức.
Này Thiên đế! Lúc ấy có vị Chuyển Luân Thánh Vương hiệu là Bảo Cái có đầy đủ thất bảo, làm chủ tứ thiên hạ. Vua có một ngàn người con đoan chính dũng kiện, có khả năng chinh phục mọi kẻ địch thù. Thuở ấy, đúc vua cùng quyến thuộc hết lòng cung kính cúng dường đức Dược Vương Như Lai mọi thứ cần dùng trải thời gian dài năm kiếp. Qua năm kiếp rồi, nhà vua dạy các con: Các con hảy kế tục theo hạnh của cha đã làm. Phải đem hết thâm tâm mà cúng dường đức Phật. Một ngàn người con đều hoan hỉ vâng lãnh lời dạy của vua cha thành tâm cúng dường đức Dược Vương Như Lai trải năm trăm kiếp nữa. Trong đó có một vương tử tên Nguyệt Cái, thiền tọa tư duy: “Đáng tiếc thay! Ta chưa hiểu được, chẳng biết còn cách cúng dường nào khác, tôn quý hơn cách cúng dường này chăng?”
Do sức thần Phật, trong không gian có tiếng vọng: “Thiện nam tử! Cúng dường pháp ưu việt hơn tất cả mọi cúng dường”.
Vương tử bèn hỏi: Cúng dường pháp là thế nào?
Tiếng vọng: “Ngưòi nên hỏi đức Dược Vương Như Lai, ngươi sẽ được biết thế
nào là cúng dường pháp”.
Vương tử Nguyệt Cái đến chỗ Dược Vương Như Lai, cúi đầu làm lễ dưới chân
Phật, đứng nép một bên thưa:
Bạch Thế Tôn! Trong tất cả sự cúng dường, cúng dường pháp ưu việt hơn hết, con chưa hiểu ý nghĩa cúng dường pháp là thế nào? Kính mong Thế Tôn vì con dạy bảo.
Đức Phật dạy: Này thiện nam tử! Ngươi hãy lắng nghe Như Lai sẽ vì ngươi nói rộng về ý nghĩa, người cúng dường pháp phải làm gì.
Người cúng dường pháp là người có khả năng nghe những kinh điển giáo lý sâu xa của chư Phật nói ra mà những người thế gian khó tin, khó hiểu, khó tiếp thọ, vì quá ư vi diệu, thanh tịnh tuyệt trần. vô nhiễm, vô vi, vượt ngoài tư duy phân biệt của người thường. Những kinh nhiếp thuộc về pháp tạng của Bồ tát là dấu ấn của Đà la ni. Những thứ kinh đưa con người đến địa vị bất thối chuyển, hoàn thành lục độ, thuận với pháp Bồ đề,trên hết trong các kinh. Những kinh nghĩa dạy cho người tu hành thể nhập đại từ bi, xa lìa các ma sự và các tà kiến. Nghe kinh nghĩa như thế không nghi ngờ sợ hãi, như thuyết tu hành gọi là cúng dường pháp. Lại nữa, người cúng dường pháp là người có khả năng nhận thức chân lý, tùy thuận pháp nhơn duyên sanh, tỏ ngộ chân lý vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ mạng. Thấu triệt nghĩa không. vô tướng, vô tác, vô khởi của vạn pháp, có thể khiến cho chúng sanh ngồi đạo tràng mà chuyển pháp luân. Chư Thiên, Long thần…tán thán. Có thể khiến cho chúng sanh thể nhập kho tàng pháp bảo của Phật, nắm trọn hết trí tuệ của hiền thánh, nói rõ những đạo lý của Bồ tát làm, y cứ vào nghĩa thực tướng của các pháp. Tuyên rõ nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt, để cứu hộ những chúng sanh sai phạm giới cấm và những ngoại đạo ma quân, những người nặng nghiệp tham, sân, si sợ sệt răn chừa. Những kinh điển chư Phật ngợi khen, trái đường sanh tử, chỉ nẻo Niết bàn, mười phương chư Phật hộ niệm và nói ra. Nghe kinh điển như thế mà tin sâu, hiểu kỹ, thọ trì, đọc tụng vì các chúng sanh phân biệt giải nói rõ ràng và giữ gìn kinh pháp đó. Làm được những điều như thế, gọi đó là cúng dường pháp.
Lại nữa, người cúng dường pháp là người đối với các pháp đúng như lời dạy của kinh mà tu hành, tùy thuận pháp nhân duyên, xa lìa tà kiến, chứng nhập pháp nhẫn vô sanh, thể nhập sâu sắc diệu lý vô ngã, vô chúng sanh. Đối với chân lý nhân duyên, nhân quả không nghi ngờ chống trái, xa lìa tất cả ngã sở hữu. Trên đường học đạo tiến tu y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh, y pháp bất y nhân. Người cúng dường pháp còn là người tùy thuận pháp tướng. Đối với các pháp không có tướng sở nhập cũng không có chỗ sở qui. Vì hiểu rằng: vô minh rốt ráo tịch diệt. Khởi quán như thế nhận thấy rõ rằng mười hai nhân duyên không có tướng tận chung cũng không có tướng khởi thủy. Học pháp như thế, hành những pháp như thế gọi đó là người cúng dường pháp tối thượng.
Đức Phật bảo: Thiên đế! Vương tử Nguyệt Cái theo đức Phật Dược Vương, nghe học pháp như thế được nhu thuận nhẫn, bèn cởi bảo y đang mặc trên mình, dâng lên cúng dường Phật và bạch rằng:
Bạch Thế Tôn! Sau Như Lai diệt độ, con sẽ thực hành cúng dường pháp để thủ hộ chánh pháp. Kính mong Thế Tôn thương xót, dùng oai thần vững mạnh khiến cho con đủ nghị lực hàng phục ma quân tu Bồ tát hạnh.
thọ ký:
Đức Dược Vương Như Lai biết ý nghĩ từ thâm tâm của vương tử Nguyệt Cái, bèn
Nguyệt Cái! Đời sau ông sẽ truyền trì chánh pháp làm tường thành hộ pháp khiến cho chư Phật cửu trụ thế gian.
Đức Thích Ca dạy tiếp: Thiên đế! Vương tử Nguyệt Cái liền sau đó, con mắt chánh pháp tỏ sáng và thanh tịnh. Nghe Dược Vương Như Lai thọ ký cho, bèn đem hết tín tâm xuất gia, tinh tấn tu tập thiện pháp, không bao lâu được năm thứ thần thông, đầy đủ đạo Bồ tát, có sức tổng trì biện tài vô đoạn. Sau Phật diệt độ đem sức tổng trì, thần thông và biện tài đã được truyền bá chánh pháp của Dược Vương Như Lai, tùy cơ phân bổ, tinh tấn giữ gìn trọn hai mươi tiểu kiếp. Nguyệt Cái tỳ kheo giáo hóa trăm muôn ức người vững bước tiến trên đường vô thượng Bồ đề. Mười bốn na do tha người phát tâm sâu sắc đối với quả Thanh văn, Bích chi Phật, vô lượng chúng sanh được phước quả cõi Trời.
3.- Này Thiên đế! Vua Bảo Cái xưa kia, không phải là ai xa lạ, chính là người được thành Phật hiệu Bảo Diệm Như Lai hiện nay. Một ngàn vương tử xưa kia là một ngàn Phật trong hiền kiếp. Vị Phật trước hết hiệu Ca La Cưu Tôn Đà Như lai. Vị Phật sau rốt hiệu là Lâu Chí Như Lai. Còn Tỳ kheo Nguyệt Cái chính là ta đây vậy.
Như thế đó Thiên đế! Đấy là điều trọng yếu. Phải biết! Hãy nên đem pháp mà cúng dường. Cúng dường pháp tối ưu việt hơn tất cả mọi cách cúng dường nào khác.
Thế cho nên Thiên đế! Hãy đem pháp cúng dường mà cúng dường chư Phật.
TRỰC CHỈ
1.- Từ lâu theo Phật và Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, từng nghe trăm ngàn kinh điển, nhưng chưa hề được nghe kinh Bất tư nhì giải thoát như vầy, lời của Thiên Đế Thích nói.
Thật vậy, người tu học kinh này quyết định sẽ được sự giải thoát bất tư nghì. Sự giải thoát ngay ở cõi đời này, sự giải thoát ở trước mọi người mà mọi người không ai hay biết. Vì kinh này do con người bất tư nghì, nói kinh bất tư nghì, trình diễn cảnh bất tư nghì, tu pháp bất tư nghì, thành tựu trí tuệ bất tư nghì cho nên đem lại kết quả giải thoát bất tư nghì vô thượng Chánh biến tri giác, ngang bằng quả vị chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.
Thế cho nên người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết tu hành theo kinh này, phước đức lớn không có ngôn từ tán thán cho cân. Không có số nhiều để so sánh, đong lường.
Đức Phật dạy cho Thiên đế: “Bồ đề cũa chư Phật ba đời, đều từ kinh này mà có ra”. Vì vậy, người tu theo kinh này quyết định sẽ thành Phật.
2.- Chư cúng dường trung, pháp cúng dường tối. Đó là tiếng vọng từ không trung, Nguyệt Cái vương tử được nghe trong lúc tĩnh tọa thiền tư tìm một phương cách cúng dường ưu việt nhất. Ý nghĩa của lời dạy đó, báo cho Vương tử Nguyệt Cái rằng: Trong tất cả phương cách cúng dường, cúng dường pháp là ưu việt hơn hết.
Cầu học phương cách cúng dường pháp, đức Dược Vương Như Lai dạy:
Người cúng dường pháp là người có khả năng nghe những kinh điển giáo lý sâu xa mà người đời khó nghe, khó tin, khó hiểu, khó hành, vì quá thâm diệu vượt tầm hiểu biết của người thường mà người này nghe được, tin được, hiểu được, hành được. Nghe những kinh điển sâu xa vi diệu sanh lòng ham mộ, không có ý sợ hãi, nghi ngờ, phát chí dũng mãnh theo lời kinh dạy mà tu hành. Làm được những việc như thế, gọi là người cúng dường pháp.
Người cúng dường pháp còn là người ham nghe đại thừa chánh pháp, học đại thừa chánh pháp, hành đại thừa chánh pháp, truyền bá đại thừa chánh pháp và thể hiện cuộc ssống qua đại thừa chánh pháp, không mệt mỏi trong sự nghiệp giáo hóa làm lợi ích chúng sanh.
3. Vương tử Nguyệt Cái, sau khi nghe Dược Vương Như Lai dạy về phương cách cúng dường pháp bèn ham mộ mà xuất gia. Hai mươi tiểu kiếp thực hành đại thừa chánh pháp, giáo hóa chúng sanh truyền bá đại thừa chánh pháp. Do vậy, Tỳ kheo Nguyệt Cái được thành Phật sớm, ở vào tiểu kiếp thứ chín, vị trí thứ tư trong sốmột ngàn vị Phật đã thành, đang thành và sẽ thành trong hiền kiếp.
Để kết thúc bài pháp cúng dường pháp, đức Thích Ca nói: Tỳ kheo Nguyệt Cái xưa kia đâu phải người nào lạ, hiện tại chính là ta. Vị sẽ thành Phật thứ 1.000 hiệu là Lâu Chí Phật ở vào tiểu kiếp thứ 20 sau này.








CHƯƠNG THỨ 14: CHÚC LŨY
1.- Đức Phật gọi Bồ tát Di Lặc bảo:
Này Di Lặc! Nay ta đem pháp vô thượng Chánh biến tri giác mà ta từng tụ tập chứa nhóm trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp phó chúc cho ông. Những kinh điển như thế, sau Phật diệt độ, ở hậu thế các ông hãy nổ lực truyền bá rộng rãi ở chốn nhơn gian đừng để cho giáo lý tối thượng thừa mai một. Vì sao? Bởi trong đời vị lai vẫn có kẻ thiện nam, thiện nữ và thiên long, quỷ thần, Càn thát bà, La sát v.v… có khả năng ham mộ pháp đại thừa phát tâm vô thượng Chánh biến tri giác.
Giả sử mà họ không được nghe những kinh điển thượng thừa liễu nghĩa như thế thì thiệt thòi quá lớn lao. Ngược lại họ được nghe kinh liễu nghĩa thậm thâm này, phát khởi tín tâm sâu sắc lãnh thọ, hành trì, đối với chúng sanh hữu duyên có khả năng tiếp thụ họ quảng bá tuyên truyền làm cho nhiều người cùng được có lợi ích.
2.- Di Lặc! Ông nên biết, Bồ tát có hai hạng: Một, ham thích văn từ bóng bẩy, ngôn ngữ khách sáo chuốt trau. Hai, không khiếp sợ những kinh nghĩa sâu xa, đúng như thật tướng mà thể nhập. Hạng ham văn từ bóng bẩy, ngôn ngữ khách sáo…Phải biết, đó là hạng tân học Bồ tát. Hạng người ngôn từ khách sáo gác bỏ ngoài tai, văn tự chuốt trau, nghi lễ rườm rà khử bỏ. Đối với kinh điển đại thừa liễu nghĩa thậm thâm, không có lòng sợ sệt, có khả năng thể nhập như thuyết tu hành, thọ trì đọc tụng, nghe rồi tâm thanh tịnh an vui. Phải biết, đó là hạng người Bồ tát trau dồi đạo hạnh đã lâu đời rồi.
Di Lặc này! Lại còn có hai hạng người cũng thuộc làng tân học. Một, từ trước họ chưa được nghe kinh điển thậm thâm liễu nghĩa, nay nghe họ sanh tâm sợ sệt nghi ngờ, không tùy thuận nổi, lại còn hủy báng không tin, thốt lên những lời bảo thủ rằng: Hồi nào giờ tôi chưa từng nghe những giáo lý như thế. Sao nay lai nói như vậy, kinh đó từ đâu mà có, đó là thứ kinh gì? Hai, có hạng người vẫn thọ trì, giải quyết thâm nghĩa của kinh, nhưng không chịu thân cận cúng dường, cung kính tôn trọng. Có lúc lại còn phê phán chỉ trích ý kinh. Hai hạng người như thế, phải biết đó là những hàng Bồ tát tân học. Họ là những người tự hủy hoại phước đức trí tuệ của mình. Họ không thể hấp thụ được những kinh nghĩa thậm thâm để điều phục lấy tâm mình.
Lại nữa Di Lặc! Còn có hai hạng Bồ tát dù tin hiểu sâu đối với kinh pháp này, nhưng vẫn còn tự làm tổn thương phước đức trí tuệ, không chứng được vô sanh pháp nhẫn. Một, khinh thường các hàng Bồ tát tân học không dạy dỗ cho họ tiến lên. Hai, dù tự mình hiểu sâu nghĩa thú của kinh, nhưng còn chấp mắc, phân biệt.
3.- Di Lặc Bồ tát, nghe nói thế liền bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có, theo lời Phật dạy, con sẽ tránh xa những khuyết điểm mà Thế Tôn đã chỉ vẻ ra. Con sẽ phụng trì pháp vô thượng Chánh biến tri giác mà Như Lai đã thực hiện và tích lũy trong vô lượng A tăng kỳ kiếp. Đời vị lai, nếu có người thiện nam, thiện nữ cầu đại thừa, con sẽ khiến cho trong tay họ cầm được những kinh điển liễu nghĩa thậm thâm như vậy và khiến cho họ thọ trì, đọc tụng truyền bá rộng cho nhiều người cùng nghe hiểu tu hành. Phải biết đó là thần lực của Di Lặc gia hộ kiến lập mà nên
Phật khen: Lành thay! Di Lặc! Như ông đã phát nguyện, Như Lai rất vui lòng và sẽ hỗ trợ thiện ý của ông.
Bấy giờ tất cả chư Bồ tát đều chấp tay bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Sau Như lai diệt độ, chúng con cũng đem hết sức mình truyền bá rộng sâu trong các cõi nước mười phương pháp vô thượng Chánh biến tri giác của Như Lai đã dạy. Lại vận dụng mọi phương tiện và khả năng hỗ trợ cho những người thuyết pháp, truyền bá kinh này được thuận lợi thập phần viên mãn.
Tứ Thiên vương bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Nơi nơi chốn chốn, thành ấp tụ lạc, núi rừng, đồng nội, chỗ nào có người thọ trì đọc tụng, biên chép giảng giải kinh này, con sẽ sai các quyến thuộc đến đó nghe pháp và để bảo hộ phạm vi một trăm do tuần, khiến cho các thứ thiên ma tà quái, cuồng tín, si mê đều không có cơ hội để khuyấy phá người truyền bá giảng thuyết kinh này.
Đức Phật bảo: An Nan! Ông hãy thọ trì kinh này và truyền bá sâu rộng ở đời sau. Dạ, bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời Phật. Con đã nắm vững những phần cốt lõi
thâm sâu rồi.
Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là chi? Ông A Nan hỏi.
Phật bảo: Kinh này tên là Duy Ma Cật Sở Thuyết. Cũng gọi là kinh Bất khả tư
nghi giải thoát pháp môn. Ông hãy như vậy thọ trì.
Phật nói kinh này xong, Trưởng giả Duy Ma Cật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi, Xá Lợi
Phất và hàng chư Thiên, người, A tu la cùng tất cả đại chúng nghe rồi đều hoan hỉ tín thọ
phụng hành.
TRỰC CHỈ
1.- Chúc lũy có nghĩa là dặn dò một cách thân thiết, vì tánh cách quan trọng của một vấn đề.
Di Lặc Bồ tát được Phật chúc lũy phải kế thừa truyền bá, giữ gìn, tôn trọng kinh này. Đây là giáo lý tối thượng thừa, lợi ích chúng sanh hậu thế rất lớn lao, không nên hời hợt lơ là khiến cho nền giáo lý thậm thâm bị mai một.
Di Lặc là vị Bồ tát sẽ thành Phật vào tiểu kiếp thứ 10 trong 20 tiểu kiếp ở vào giai
đoạn trụ.
2.- Bồ tát ham thích văn từ bóng bẩy, ngôn ngữ khách sáo. Đó là Bồ tát tân học, trí tuệ căn lành chưa được bao nhiêu…
Bồ tát nghe kinh điển tậm thâm vi diệu ham mộ tư duy phấn chí tu hành không nghi ngờ, không sợ sệt. Đó là Bồ tát đã trồng sâu căn lành nhiều đời nhiều kiếp…
3.- Bồ tát Di Lặc phát biểu tiếp thu nguyện đem hết sức mình động viên, cổ vũ khiến cho mọi người cùng hưởng ứng tu tập theo giáo lý đại thừa liễu nghĩa thậm thâm này để cùng thu hoạch tột cao, trên con đường Bồ đề vô thượng.
Nhằm xác lập vấn đề cho thật rõ ràng, nghiêm túc trước khi chấm dứt thời pháp liễu nghĩa tối thượng thừa, ông A Nan hỏi Phật về tên gọi của kinh này.
Đức Phật dạy: Kinh này tên gọi là Duy Ma Cật Sở Thuyết cũng gọi là Bất khả tư
nghì giải thoát pháp môn kinh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Trân trọng cám ơn!